Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới có khí hậu gió mùa nóng ẩm là một đặc điểm có nhiều yếu tố đòi hỏi con người sống trong môi trường này phải điều chỉnh để thích nghi. Chúng ta lại là một nước đang phát triển vì vậy gần như cả nước đâu đâu cũng mọc lên các công trình xây dựng, các nhà máy cũ, các xí nghiệp nhỏ xen lẫn dân cư, nước thải thì không được xử lý triệt để v.v... Tất cả các đặc điểm trên tạo nên sự ô nhiễm môi trường về tiếng ổn, về hơi khí độc, về hoá chất và bụi. Ba vấn đề ô nhiễm môi trường có liên quan nhiều và ảnh hưởng nhiều đến chức năng hô hấp của phổi, gây nên các bệnh phổi đó là ảnh hưởng của sự ô nhiễm bụi, hơi khí độc và hút thuốc lá [4][30] [33].
Đặc điểm ô nhiễm bụi
Các loại bụi
Bụi là những hạt vật chất rắn có kích thước khác nhau và có khả năng xâm nhập vào cơ thể qua da hoặc qua đường hô hấp. Bụi được tạo thành do quá trình khoan, nổ mìn, xay, nghiền, cưa, đánh bóng, vận chuyển, bốc dỡ các loại đất, đá, chất khoáng, gỗ hoặc kim loại, than đá v.v...Căn cứ vào tác hại của bụi đối với cơ thể, chúng ta chia thành bốn loại bụi:
- Bụi trơ: Bụi này không gây ra các phản ứng của cơ thể, nhưng nếu tích chứa trong đường hô hấp có thể gây cản trở cho sự thông khí hoặc quá trình làm sạch của phổi.
- Bụi gây nhiễm độc: Là những loại bụi khi xâm nhập vào cơ thể có thể hoà tan vào các dịch để thấm vào cơ thễ và gây nhiễm độc cấp tính cho một số cơ quan trong cơ thể như hô hấp, thần kinh, thận, tiêu hoá...
- Bụi gây dị ứng: Là những loại bụi khi xâm nhập vào cơ thể có thể gây nên các phản ứng dị ứng, gây hen phế quản hoặc chàm v.v...
- Bụi gây xơ hoá phối: Là những loại bụi khi xâm nhập qua đường hô hấp vào phổi gây nên trạng thái xơ hoá phổi, đây là những loại bụi rất đặc trưng gây nên các bệnh bụi phổi như bệnh bụi phổi silic, hoặc bệnh bụi phổi do amian v.v
Người ta chia kích thước các hạt bụi ra làm hai loại là loại có kích thước lớn từ 8-19µm và loại có kích thước nhổ dưới 5um.

- Loại bụi có kích thước lớn khỉ xâm nhập vào đường hô hấp bị cản trước hết bởi hệ thống lông lọc ở mũi, nếu vào đến phế quản và phế quản nhỏ, lắng đọng trên lớp biểu mô lót của đường dẫn khí và bị đẩy ra ngoài nhờ sự di chuyển của lớp lông và nhờ các phản xạ hắt hơi, khạc đờm để tống ra ngoài.
- Loại bụi có kích thước nhỏ dưới 5um còn được gọi là bụi hô hấp. Đây là loại bụi có khả năng vào đến tận các phế nang và gây nên các bệnh bụi phổi.
Tác hại của bụi đối với cơ thể không những phụ thuộc vào kích thước, diện tích của hạt bụi mà còn phụ thuộc và nỗng độ của bụi trong một m³ không khí, phụ thuộc vào thời gian tiếp xúc với bụi và phụ thuộc vào phản ứng của cơ thể đối với mỗi loại bụi. Tuy nhiên trong lao động, người ta quy định tiêu chuẩn vệ sinh cho phép đổi với mỗi loại bụi. Một số bằng dưới đây ghi lại các tiêu chuẩn vệ sinh cho phép trong môi trường đối với một số loại bụi. (Theo tiêu chuẩn vệ sinh lao động của Bộ Y tế- Nhà xuất bản Y học, 2003) [4].

Nỗng độ tối đa cho phép bụi bông (trung bình lấy mẫu 8 giờ): 1 mg/m³.
Dựa vào tiêu chuẩn vệ sinh cho phép, trong kiểm tra tiêu chuẩn vệ sinh của các môi trường lao động nhiễm bụi, chúng ta có thể đánh giá được môi trường lao động có đạt tiêu chuẩn cho phép về nổng độ bụi hay không và từ đó có các biện pháp cụ thể bảo vệ sức khỏe người lao động.

Tác hại của bụi với sức khỏe
Tác hại của bụi đã được xác định bằng nhiểu công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Trong y học lao động, cũng như trong bệnh học có những phần trình bày về các bệnh bụi phổi nghề nghiệp như bệnh bụi phối silic, bệnh bụi phổi bông v.v. Tuy nhiên tuỳ theo mức độ tiếp xúc với môi trường bụi, tuỳ thuộc vào tính chất của hạt bụi và nhiều yếu tố khác mà mức độ tác hại có thể đi từ nhẹ đến nặng. Bụi có kích thước lớn xâm nhập và bị giữ lại ở mũi, khí, phế quản và phế quẩn nhỏ, nó có thể gây nên tình trạng mũi bị viêm, xuất tiết, cương tụ và nếu bị nhiễm bụi lâu ngày có thể dẫn đến thoái hoá niêm mạc, viêm teo và làm giảm hoặc mất khả năng lọc của mũi. Khi xâm nhập tiếp vào đường dẫn khí, bụi có thể gây viêm khí - phế quản cấp tính hoặc mạn tính. Kết quả của quá trình viêm nhiễm kéo dài là gấy nên các bệnh của phổi hoặc các bệnh đường hô hấp và mũi họng.
Bụi nhỏ dưới 5µm (bụi hô hấp) khi xâm nhập vào được phế nang tạo nên quá trình viêm xơ hoá tổ chức phổi và gây nên các bệnh bụi phổi.
Nếu vị trí tiếp xúc của bụi là làn da, niêm mạc mắt, nó có thể làm bịt các lỗ tuyến nhờn trên mặt da, làm da bị khô, viêm loét da, đặc biệt ở môi trường nóng bụi làm ảnh hưởng đến sự thải nhiệt của da qua đường thoát mỗ hôi, làm ảnh hưởng đến sức khoề và khả năng lao động của người công nhân. Bụi có thể làm viêm kết mạc mắt hoặc gây nên các sẹo giác mạc nếu như bụi xâm nhập vào mắt mà không được điều trị kịp thời.
Bụi có chứa các dị nguyên, các bụi hữu cơ còn có thể gây dị ứng, gây hen phế quản. Bụi có chứa vi khuẩn, virus, nấm mốc có thể gây ra nhiều bệnh khác nhau tuỳ theo loại bụi.
Ảnh hưởng của bụi đổi với chức năng hồ hấp của phổi
Các loại bụi có khả năng xâm nhập vào đường hô hấp và vào phổi đều gây nên các biểu hiện bệnh lý ở các mức độ khác nhau và đều có thể ảnh hưởng đến chức năng hô hấp của phổi.
Mức độ rồi loạn chức năng hô hấp của phổi có thể chỉ rối loạn chức năng thông khí phổi ở các mức độ lúc đầu là rất nhẹ, có thể giảm một số chỉ tiêu thông khí nhưng vẫn đạt được từ trên 80% số lý thuyết, sau đó có thể ở các mức độ vừa, nặng hoặc rất nặng.
Tuy theo tính chất của bụi, mức độ tiếp xúc và quá trình diễn biến bệnh lý, chúng ta sẽ có được các kiểu rối loạn chức năng thông khí khác nhau.
Cùng với các mức độ rối loạn chức năng thông khí phổi khác nhau, các chỉ tiêu về khí máu như PaO₂ PaCO2, SaO2 và cân bằng acid-base trong máu đều có thể có những biến đổi ở các mức độ khác nhau. Các nghiên cứu được công bố đã cho thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa biến đổi chức năng thông khí phổi với sự biến đổi của hàm lượng các khí trong máu cũng như sự cân bằng acid-base trong cơ thể.
Những trường hợp được phát hiện sớm các rối loạn chức năng thông khí phổi chúng ta có thể có những biện pháp can thiệp sớm như điều trị phục hồi chức năng, cách ly môi trường bụi hoặc tìm các giải pháp giẩm thiểu tối đa nồng độ trong môi trường và ngăn cản bụi xâm nhập vào cơ thể, chúng ta có thể phục hồi trở lại bình thường đối với chức năng hô hấp của phối. Giai đoạn biến đổi CNHH được phát hiện sớm và can thiệp còn có hiệu quả phục hổi trở về bình thường, chúng ta gọi là giai đoạn có thể phục hồi được.
Đo chức năng thông khí phổi có thể đánh giá được tình trạng bệnh lý, mức độ rối loạn, chẩn doán phân biệt giai đoạn bệnh và một số biểu hiện bệnh lý phức tạp, theo dõi hiệu quả điều trị và đánh giá mức độ mất sức lao động trong giám định bệnh nghể nghiệp.
Wang X. và CS bằng các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng công nhân tiếp xúc với bụi than, amian, bui dioxid có giảm các chỉ số thông khí phổi và khả năng khuếch tán khí và thấy chức năng thông khí giảm rõ hơn ở những người bị bệnh bụi phổi.
Ở những công nhân tiếp xúc với bụi than và bụi silic rồi loạn các chức năng hô hấp chủ yếu gặp ở thể hỗn hợp, nhưng với bụi amian lại thấy chủ yếu công nhân tiếp xúc với bụi trong sản xuất xi măng có tỷ lệ người rối loạn thông khí tắc nghẽn cao hơn rõ rệt so với nhóm đối chứng không tiếp xúc.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đắc Vinh và cộng sự ở công nhân khai thác đá thấy có tỷ lệ rối loạn thông khí hạn chế là 15,42%, rối loạn tắc nghẽn là 6,54% và rồi loạn hỗn hợp là 3,2%. Nghiên cứu của Nguyễn Giang Hải và cộng sự đã cho thấy những biến đổi về khí máu và cân bằng acid-base ở công nhân tiếp xúc với bụi xi măng có nỗng độ bụi trên 1mm³ không khí vượt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép. Các tác giả chỉ ra rằng PaO2 máu thấp (77,67mmHg), SaO2 giảm nhẹ (89,44%) so với bình thường, PaCO2 máu tăng (51,91mmHg) cao hơn chỉ số bình thường, cân bằng acid-base biểu hiện nhiễm toan hô hấp còn bù.
Những nghiên cứu trên nhóm đối tượng bị bệnh phổi nghề nghiệp lâu ngày đều cho thấy rối loạn thông khí gặp chủ yếu là rồi loạn thông khí hỗn hợp và thường là không có khả năng hồi phục.
Tóm lại chúng ta thấy bụi là một trong những yếu tố nguy cơ có hại và nó có thể tác động gây ảnh hưởng đến sức khỏe và gây ra những bệnh phổi nghề nghiệp hoặc những bệnh phổi nguy hiếm khác như ung thư phổi, hen phế quản hoặc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Tuỳ theo mức độ tác động của bụi, loại bụi khác nhau nó làm biến đổi chức năng hô hấp của phổi bao gồm cả chức năng thông khí, các thành phần khí máu và cân bằng acid-base của máu từ nhẹ đến nặng ở các mức độ khác nhau. Thăm dò chức năng hô hấp là xét nghiệm không thể thiếu được nhằm chẩn đoán, tiên lượng, theo dõi, điều trị và giám định sức khoё.
Ô nhiễm hơi khí độc
Môi trường có thể bị ô nhiễm hơi khí độc do chất thải của các nhà máy, chất thải của các xe cơ giới giao thông trên đường, do sự phân huỷ của các chất hữu cơ, các chất thải ra dưới dạng hơi, khí đi vào trong môi trường. Có rất nhiều loại hơi khí độc ở Việt Nam. Theo các nghiên cứu của Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương điều tra trong các nhà máy và các khu công nghiệp, đã xác định có khoảng 50 loại hơi khí độc trong đó có trên 10 loại hay gặp nhất và một số loại có nổng độ trong không khí vượt quá tiêu chuẩn vệ sinh cho phép gấp nhiều lần. Các loại hơi khí độc hay gặp là CO, CO2, SO2. H₂S v.v. Các loại hơi khí độc xâm nhập vào cơ thể chủ yếu qua đường hô hấp, nó có thể có tác dụng trực tiếp tại chỗ và gây nên các phản ứng tại chỗ, gây nên các tổn thương hoặc gây nên các tình trạng nhiễm độc cấp tính. Nó cũng có thể qua phế nang vào máu và tạo thành các phản ứng gây nên nhiễm độc có khi nguy hiểm đến tính mạng nếu không được điều trị kịp thời.
Khí CO là một chất khí rất độc, nó được tạo ra do sự đốt cháy không hoàn toàn của các chất hữu cơ, của các nhà máy sử dụng nhiên liệu than đá, than mỡ, hoặc từ quá trình đốt cháy nhiên liệu từ các xe cơ giới như xăng dầu. Khí CO khi vào máu qua phế nang, nó chiếm vị trí của oxy trong phân tử hemoglobin tạo thành methemoglobin COHb và dẫn đến tình trạng thiếu oxy của tổ chức. Tuy theo mức độ xâm nhập của CO vào cơ thể mà có thể gây nhiễm độc cấp tính hoặc mạn tính CO.
Nhiễm độc cấp tính SO₂ có thể gây khó thở do phản xạ co thắt thanh quản, có thể gây ngừng tuần hoàn phổi và dẫn đến tử vong.
Mức độ suy giảm chức năng hô hấp của phổi sẽ tuỳ thuộc vào mức độ gây tổn thương phổi cấp tính hoặc mạn tính của các hơi khí độc. Trong trường hợp các tổn thương gây co thắt các khí phế quản, các tiểu phế quẩn chúng ta sẽ gặp rối loạn thông khí tắc nghẽn là chủ yếu. Khi các tổn thương làm ảnh hưởng đến nhu mô phổi, hoặc tính đàn hồi của phổi chúng ta sẽ gặp rối loạn thông khí hạn chế là chủ yếu.
Các quá trình bệnh lý ở phổi do các yếu tố bất lợi của môi trường như bụi, hơi khí độc, v.v. nếu tiến triển đến giai đoạn nặng của bệnh đều có thể dẫn đến rối loạn thông khí hỗn hợp và không hồi phục. Ở giai đoạn này, bệnh nhân thường khó thở, suy hô hấp và rối loạn cân bằng acid-base máu, thiếu oxy, PaO2 giåm và bão hoà oxy hemoglobin giảm.
Ảnh hưởng của hút thuốc lá đến sức khoẻ và chức năng hô hấp của phổi [22] [33]
Đến nay tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe nói chung và các bệnh phổi nói riêng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu về dịch tễ học, các yếu tố nguy cơ và bệnh sinh gây ra do hút thuốc lá. Mặc dù trên mỗi bao thuốc đều đã ghi "thuốc lá có hại cho sức khoẻ" nhưng cho đến nay tỷ lệ người hút thuốc lá vẫn còn rất cao và thuốc lá vẫn được các công ty sản xuất và được bán rộng rãi trên thị trường. Hiện nay Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cùng với các nước đã thống nhất lấy ngày 31 tháng 5 hàng năm là ngày thế giới không hút thuốc lá. Khoa học dự báo đã cảnh báo nếu không có những biện pháp ng n chặn kịp thời và tích cực thì khoảng 30-40 năm tới tức là vào những năm 2030 sẽ bùng nổ "đại dịch bệnh" do thuốc lá gây ra và cứ 3 giây có một người chết do thuốc lá.
Tổ chức Y tế Thế giới cũng khuyến cáo các nước nên có chương trình quốc gia phòng chống tác hại của thuốc lá phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của nước mình. Vậy một câu hỏi đặt ra là tại sao vấn để hút thuốc lá lại được toàn thế giới quan tâm như vậy? Câu trả lời có thể đơn giản là vì tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ là rất nguy hiểm nhưng nhận thức của con người về vấn đề này còn chưa thật đẩy đủ và vì lợi nhuận sản xuất thuốc lá nên các quốc gia vẫn cứ phát triển và tỷ lệ người hút thuốc vẫn ngày càng gia tăng.
Các nhà khoa học đã tìm hiểu thành phần của khói thuốc và thấy rằng khói thuốc có thể chia làm hai loại là khói thuốc chính và khói thuốc phụ [22] [33].
- Khói thuốc chính: Là khói thuốc do người hút hít vào rồi thở ra mà tạo thành. Người ta đã tìm ra khoảng 5000 chất khác nhau ở hai thể có trong khói thuốc chính đó là thế hơi chiếm 92% và thể hạt chiếm 8%.
- Trong thể hơi (92%) các chất khí N₂, O2, H₂ chiếm 73%, 17% là các chất khí CO, và CO, còn lại 2% là các chất acrolein, formaldehyd, NH3, cyan, hydro, aceton, isopren.
- Thể hạt 8% là thể gây nhiều bệnh nguy hiểm. Nó gồm: ++ Hắc ín hoàn toàn: nicotin 0,5%, hắc ín 6,7%. ++ Chất gây ung thu: 3,4 benzopyen, anthracen,phenanthracen. ++ Chất hỗ trợ gây ung thu: cathecol, pyren, proneotor, cadmi. ++ Nước 0,8%
- Khói thuốc phụ là khói tỏa ra ở đầu điếu thuốc để đốt cháy tự nhiên và hàm lượng các chất độc hại trong khói thuốc phụ cao hơn gấp nhiều lần so với khói thuốc chính. CO gấp 15 lần, nicotin gấp 21 lần, formaldehyd gấp 50 lần, dimethylnitrosamin gấp 130 lần v.v.
Một người khi hút một điếu thuốc sẽ giải phóng ra hai loại, khói thuốc chính và khói thuốc phụ, cả hai loại khói này đều toå ra trong môi trường do đó cả người hút thuốc và người không hút thuốc đều hít phải khói thuốc và đều có thể nhiễm độc khói thuốc. Tuy theo mức độ tiếp xúc và thời gian tiếp xúc mà ảnh hưởng đến sức khỏe và gây ra các bệnh khác nhau, những mức độ khác nhau.
Người không hút thuốc nhưng sống trong môi trường có khói thuốc do người khác hút thuốc sẽ vẫn hít phải cả hai loại khói thuốc và trong trường hợp này chúng ta gọi là hút thuốc thụ động và nó cũng gây ra bệnh tật, tác hại đến sức khoẻ tùy theo mức độ tiếp xúc giống như hút thuốc chủ động.
Các nghiên cứu đã cho thấy khói thuốc tác hại đến nhiều bộ máy, nhiều cơ quan trong cơ thể. Hiện nay người ta đã thống kê được hơn 64 bệnh hô hấp và tim mạch.
Các bệnh hô hấp do thuốc lá gây ra gồm các bệnh như viêm mũi, họng, xoang, viêm thanh quản, viêm phế quẩn cấp tính và mạn tính, khí phế thũng, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), ung thư vòm họng, ung thư thanh quần, ung thư phổi hay ung thư phế quản - phổi. Người hút thuốc lá khi tiếp xúc với các yếu tố tác hại khác như bụi, hơi khí độc sẽ tăng tác hại của các yếu tố nguy cơ đó.
Người hút thuốc lá làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch như bệnh mạch vành và một số bệnh tim mạch khác.
Người bị hút thụ động cũng có thể mắc các bệnh hô hấp và tim mạch giống như người hút thuốc chủ động, đặc biệt với đối tượng là phụ nữ có thai và trẻ em, nguy cơ mắc các bệnh hô hấp tăng lên gấp nhiều lần so với nhóm đối tượng khác. Mức độ rối loạn chức năng hô hấp của phổi ở những người hút thuốc lá cũng tuỳ thuộc vào mức độ tổn thương phổi khác nhau hoặc bị các bệnh phổi khác nhau mà dẫn đến các rối loạn CNHH với các thể khác nhau và mức độ nặng nhẹ khác nhau. Tuy nhiên các nghiên cứu so sánh ở nhóm người bình thường có hút thuốc lá và nhóm người bình thường không hút thuốc lá các tác giả thấy nhóm có hút thuốc CNHH cũng bị giảm hơn so với nhóm không hút thuốc.
