Đơn vị đо
Huyết áp được đo bằng đơn vị milimet thuỷ ngân (mmHg) đó là chiều cao cột thuỷ ngân dâng lên dưới tác dụng của áp suất tính bằng milimet. Huyết áp bao gið cũng được đo trong mối liên quan với áp suất khí quyển chứ không phải trong điều kiện chân không.
Áp suất khí quyển
Cảm một ống thuỷ tinh dài vào bể đựng thuỷ ngân, rồi nối đỉnh ống với máy bơm chân không, thuỷ ngần sẽ dâng lên ống, nhưng thuỷ ngân chỉ dâng lên khoảng 760mm và sau dó không dâng lên nữa và để lại một khoảng chân không ở đỉnh ống (hình 27 - trái).

Chiều cao cột thuỷ ngân dâng lên trong ống không phụ thuộc vào thiết diện ống.
Thuỷ ngân không được hút lên ống do bơm hút chân không mà là bị đẩy lên dưới tác dụng của áp suất khí quyển (PB) vào thuỷ ngân ở trong bể. Chân không ngăn không cho áp suất khí quyển tác động lên thuỷ ngân trong ống. Thiết bị này hoạt động như một khí áp kế, và chiều cao cột thuỷ ng n được gọi là áp suất khí quyển. Ở mức mặt biển, áp suất khí quyển thường giao động trong khoảng 730 - 780 mmHg và giá trị trung bình là 760mmHg (bằng một atmôtphe).
Càng lên cao áp suất khí quyển càng giảm và cứ tăng độ cao 18.000 foot (foot là đơn vị đo chiều dài của Anh và bằng 0,3048) thì áp suất khí quyển lại giảm đi một nửa. Như vậy ở độ cao 18.000 foot so với mặt biển, áp suất khí quyển là 380mmHg và chỉ còn190mmHg khi ở độ cao 36.000 foot là độ cao máy bay phản lực chở hành khách thường bay. Trong Cabin của máy bay phải luôn luôn đảm bảo áp suất gần giống áp suất ở mức mặt biển.
Huyết áp
Dụng cụ như đã mô tả ở hình 27 được coi như áp kế thuỷ ngân để đo huyết áp bằng cách biến bể thuỷ ngân thành buồng kín, sao cho buồng kín đó nổi thông với ổng thuỷ tỉnh và áp suất máu tác động lên thuỷ ngân qua không khí hoặc nước muổi (hình 28).
Dụng cụ đo huyết áp có khoảng chân không ở đỉnh ống rất khó dùng, vì khi đo huyết áp động mạch cột thuỷ ngân sẽ dâng cao 880mm (cao hơn áp suất khí quyển 120mm). Ở những bệnh nhân cao huyết áp thì ta phải dùng một ống thuỷ tỉnh cao hơn một mét. Hơn nữa kết quả đo được lại còn tuỳ thuộc vào điều kiện áp suất khí quyển và thay đổi từ ngày này sang ngày khác tuỳ theo sự thay đổi của áp suất khí quyển. Huyết áp tâm thu có thể dâng cột thuỷ ngân lên cao 890mm vào ngày đẹp trời, nhưng lại chỉ cao có 860mm vào những ngày ẩm ướt.
Để chỉ đo phần huyết áp cao hơn áp suất khí quyển, người ta dùng một áp kế có nguyên tắc khác biệt là khí quyển thông với đỉnh cột thuỷ ngân (hình 28) và tác động vào đỉnh cột thuỷ ngân. Như vậy ta có thể dùng một ổng thuỷ tỉnh ngắn hơn nhiều.
Dụng cụ đo huyết áp cho người là máy đo huyết áp. 0mmHg trên máy đo huyết áp tương ứng với áp suất khí quyển (760mmHg). Huyết áp 120mmHg có nghĩa là huyết áp lớn hơn áp suất khí quyển 120 mmHg (hay là 760 + 120 = 880 mmHg trong điều kiện chân không).

Huyết áp ở các mạch máu trong lồng ngực và trong hộp sọ có thể thấp hơn áp suất khí quyển (775mmHg trong điều kiện chân không) và số mmHg thấp hơn áp suất khí quyển là 5 và gọi là - 5mmHg.
Để đo huyết áp người ta hay dùng áp kế đồng hồ hoặc áp kế điện tủ. Áp suất chuyển động màng ngăn và di chuyển kim trong mặt đồng hồ (áp kế đồng hồ) hoặc thay đổi điện bằng máy biến năng như đối với máy đo điện tử. Có thể nối áp kế điện tủ với ống thông nhỏ để đo sự thay đổi áp suất trong tim và mạch máu.
Đơn vị đo huyết áp - Kilopascal
Theo hệ thống S.I. đơn vị đo áp suất là Niutơn trên mét vuông hay pascal. Trong y học lâm sàng thì đơn vị này quá nhỏ vì vậy người ta thường dùng kiloniuton trên mét vuông hay kilopascal (kPa).
Sụ tương quan giữa mmHg và kPa được tính như sau: thể tích cột thuỷ ngân thiết diện 1m², cao 1mm là 1 lít và nặng 13,6 kg. Vì độ gia tốc dưới trọng lượng là 9,81 nên lực của thuỷ ngân tính bằng niuton sé là: 13,6 x 9,81 = 133 niuton.
Lực này tác động trên diện tích một mét vuông nên có áp suất là 133 niuton trên mét vuông hay 133 pascal. Tính ra kilopascal ta có:
1mmHg = 0,133 kPa và 7,5 mmHg = 1kPa
Vậy muốn đổi từ mmHg và kPa ta chỉ việc chia số mmHg cho 7,5. Ta có thể tích nhẩm bằng cách nhân đôi số mmHg rồi lại nhân đôi làn nữa, sau dó chia cho ba rồi chia cho mười, hay nói một cách khác là nhân với bốn rồi chia cho ba mươi.
120mmHg = 16kPa
110mmHg = 14,7kPa
100mmHg = 13,3kPa
90mmHg= 12kPa
80mmHg = 10,7kPa
40mmHg = 5,3kPa
ÁP SUẤT TÂM THẤT
Nửa tim trái (tâm thất trái)
Ấp suất buồng thất trái trong thời kỳ tâm trương là 0- 7mmHg (0 - 1kPa). Khi tâm thất trái co, áp suất tăng và cao nhất là 120 mmHg (16kPa) trong thời kỳ thất thu. Sau đó áp suất hơi giảm, cuối tâm thu là 110mmHg (14,7kPa). Bắt đầu tâm trương, áp suất trong tâm thất giảm nhanh xuống tới 0mmHg (0kPA) (hình 29 - đường đậm)
Động mạch chủ gắn liền với tâm thất trái trong thời kỳ tâm thu, và áp suất trong động mạch chủ lên tới 120mmHg (16kPa) (hình 29 nét vẽ nhỏ), nhưng khi áp suất trong tâm thất trái bắt đầu giảm, van động mạch chủ sẽ đóng. Nhờ tính đàn hồi của động mạch chủ và các động mạch gần tim nên trong thời kỳ tâm trương vẫn duy trì được áp suất máu trong động mạch chủ để máu tiếp tục chảy đến các tổ chức mặc dù trong thời kỳ này của chu kỳ tim, tim không tống máu vào động mạch chủ. Áp suất trong động mạch chủ chỉ giảm xuống 80mmHg (10,7kPa) và đến thời kỳ tâm thu tiếp sau lại tăng lên 120mmHg (16kPa)

Áp suất tối đa trong động mạch chủ và các động mạch lớn gọi là huyết áp tâm thu, và áp suất tối thiểu gọi là huyết áp tâm trương (hình 30). Như vậy là áp suất trong động mạch chủ giao động từ giá trị cao nhất là 120 mmHg đến giá trị thấp nhất 80mmHg và dược viết như sau:
Huyết áp: 120/80mmHg (16/10,7kPРа)

Nửa tim phải (thất phải)
Một lượng máu tương tự cũng được bơm ra khỏi thất phải, nhưng với áp suất thấp hơn nhiều (hình 31).

Áp suất buồng thất phải trong thời kỳ tâm trương là 0mmHg (0kPa) và chỉ tăng đến 25 mmHg trong thời kỳ tâm thu.
Ấp suất động mạch phổi tăng theo áp suất thất phải và đạt mức tối đa là 25mmHg (3,3 kPa) van động mạch phổi đóng khi áp suất trong thất phải bắt đầu giảm. Vì động mạch phổi không đàn hồi như động mạch chủ, nên trong thời kỳ tâm thu sau áp suất trong động mạch phổi giảm chỉ còn 8 mmHg (1,1 kPa) (hình 31). Do áp suất trong động mạch phổi giao động trong khoảng từ 25 mmHg (3,3, kPa) đến 8 mmHg (1,1 kPa), hay nói cách khác áp suất máu trong động mạch phổi là 25/8 mmHg (3,3/1,1 KРа).
Hình 32. Minh hoạ áp suất trong vòng tuần hoàn.

HUYẾT ÁP ĐỘNG MẠCH
Từ "huyết áp" thường dùng để nói đến áp suất máu trong động mạch chủ và các động mạch lớn (huyết áp động mạch).
Các cơ quan của cơ thể cần có dòng máu chảy. Ấp suất máu động mạch là cần thiết đẩy máu qua các tiểu động mạch, mao mạch và tĩnh mạch để bảo đảm cho máu chảy. Dòng máu cần phải lưu thông đầy đủ, nhưng huyết áp chỉ có tầm quan trọng thứ yếu. Chúng ta biết rằng trong vòng tiểu tuần hoàn, huyết áp động mạch phổi chỉ thấp (16mm Hg hoặc là 2,1 kPa) mà vẫn đủ duy trì dòng máu phổi là 5000 ml/ph, trong khi đó ở vòng đại tuần hoàn huyết áp động mạch chủ lại cần cao tới 100 mm Hg (13,3 kPa).
Ở một số chủng tộc ở vùng Đông Nam Á, huyết áp trung bình ở vòng tuần hoàn là 70 mm Hg (9,3 kPa), như vậy là huyết áp của họ thấp hơn những người sống ở phương Tây.
Ngoài ra còn hai yếu tổ nữa cần chú ý có liên quan đến huyết áp. Thứ nhất là trong tư thể ngồi và đứng, não ở vị trí cao hơn tim để có thể bơm máu từ tim lên não cần có một mức áp suất máu nhất định. Với áp suật thấp máu sẽ không cung cấp đủ cho não, nhưng với một người đang nằm thì lại không cần mức áp suất cao như vậy. Do đó, người có huyết áp thấp vẫn có thể tỉnh táo khi nằm, nhưng sẽ mất ý thức nếu như người đó ngồi hoặc đứng. Lý do thứ hai là huyết áp cho phép thận tạo ra nước tiểu.
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUYẾT ÁP
Để có huyết áp phải có lưu lượng tim và sức cản đối với dòng máu của hệ tuần hoàn. Sức cản này được gọi là sức cản ngoại biên. Huyết áp được tính theo công thức:
Huyết áp = Lưu lượng tim x Sức cản ngoại biên
Các yếu tổ ảnh hưởng đến lưu lượng tim sẽ được trình bày ở chương Năm. Tuy nhiên, khi nghỉ lưu lượng tim tương đối hằng định và huyết áp chủ yếu phụ thuộc vào sức cản ngoại biên. Sức cản ngoại biên chủ yếu là ở các tiểu động mạch. Đó là những mạch máu có đường kính nhỏ và có sức cản lớn nhất .Sức cản tỷ lệ thuận với (1/đường kính)^4. Mao mạch là những mạch máu nhỏ hơn đường kính đường kính) các tiểu động mạch. Mặc dù sức cản của mỗi mao mạch lớn hơn sức cản của mỗi tiểu động mạch, nhưng vì mỗi tiểu động mạch lại chia thành nhiều mao mạch (Hình 33) nếu sức cản của nó thấp hơn của tiểu động mạch và máu có nên thể chảy từ tiểu động mạch đến các tỉnh mạch qua mạng lưới mao mạch.

Độ quánh của máu.
Sức cản ở những tiểu động mạch có kích thước nhất định phụ thuộc vào độ quánh của máu. Máu là một loại dịch quánh dính có sức cản lớn gấp hai, ba lần nước và muối. Độ quánh của máu phụ thuộc một phần vào huyết tương và một phần vào huyết cầu.
Độ quánh của máu thường hằng định, nhưng khi truyền nhiều huyết thanh mặn thì độ quánh của máu sẽ giảm, những thế phẩm của huyết tương như dextran là những dịch quánh. Số lượng hồng cầu giảm (thiếu máu) ít ảnh hưởng đến độ quánh của máu, nhưng nếu tăng hồng cầu (bệnh đa hồng cầu) sẽ làm tăng độ quánh. Độ quánh giảm sẽ làm giảm huyết áp và ngược lại độ quánh tăng sẽ làm tăng huyết áp.
ĐIỀU HOÀ TRUNG ƯƠNG CỦA MẠCH MÁU
Thành các tiểu động mạch có nhiều sợi cơ trơn được sắp xếp thành vòng tròn. Khi cơ co, lòng mạch nhỏ lại (Hình 34). Kích cỡ tiểu động mạch có thể lớn gây giãn mạch, có thể nhỏ vì có thần kinh từ hệ giao cảm đến chi phối, tác động và gây co mạch vì cơ trơn co lại. Hoạt động giao cảm này, còn gọi là cường giao cảm bắt nguồn từ các tế bào trong hành tuỷ tức trung tâm vận mạch.

Thông tin truyền từ trung tâm vận mạch đến tiểu động mạch phải qua ba noron (Hình 35). Đầu tiên là từ hành tuỷ xuống cột bên chất trắng tuỷ rồi đến các tế bào sừng bên chất xám tuỷ từ đoạn lưng đến các đốt trên của vùng thắt lưng.

Sợi trước hạch của nơron thứ hai (ở chất xám sừng bên tuỷ) theo các rễ thần kinh bụng (nhánh trắng) đến thân dây thần kinh giao cảm. Tại đây nó tiếp xúc với nơron thứ ba hay là sợi sau hạch (nhánh xám) rồi đi đến mạch máu, đoạn này thường nằm trong bó sợi thần kinh hỗn hợp (chương 19).
Chất truyền tin hoá học ở tận cùng sau sợi hạch là noradrenalin.
Trung tâm vận mạch làm cho các tiểu động mạch ở trạng thái hơi co. Nếu trung tâm vận mạch tăng hoạt động, các tiểu động mạch sẽ nhỏ hơn, người ta gọi là co mạch.
Nếu hoạt động của trung tâm vận mạch giảm, các mạch máu sẽ trở lại với kích thước lớn ban đầu, trạng thái này gọi là giân mạch.
Trong những điều kiện bình thường, sự tăng hoạt động của trung tâm vận mạch gây ra co mạch và làm tăng huyết áp. Ngược lại, sự giảm hoạt động trung tâm vận mạch sẽ làm giãn mạch và do đó giảm huyết áp (hình 36).

Cảm thụ thể.
Nhờ các bộ phận nhận cảm áp suất, huyết áp được duy trì ở mức hằng định. Các bộ phận nhận cảm áp suất co ở thành mạch vùng xoang động mạch, thân động mạch cánh tay-đầu, cung dộng mạch chủ (Hình 37). Chúng nhậy cảm với huyết áp và truyền thông tin liên quan đến huyết áp về trung tâm vận mạch dưới dạng xung động thần kinh được mã hoá.
Hình 38 mô tả hoạt động của nơron nhận cảm áp suất ở ba mức huyết áp khác nhau, hòạt động này giao động trong chu chuyển tim vì huyết áp cũng giao động trong chu kỳ tỉm. Sự hoạt động thần kinh cũng tăng khi huyết áp tăng.


Hoạt động của cảm thụ thể áp suất có tác dụng như "cái hãm" để ức chế trung tâm vận mạch. Bộ phận nhận cảm áp suất hoạt động càng mạnh thì tác dụng của hệ giao cảm trên các tiểu động mạch càng yếu và mạch sẽ giãn ra (Hình 39). Đây là cơ chế hoàn ngược (feedback) có khuynh hưởng hạn chế đến mức tối thiểu sự giao động huyết áp. Nếu có một lý do nào đó làm giảm huyết áp, như sau khi cho máu ( khoảng 0,51 ) thì hệ thần kinh giảm áp sẽ giảm hoạt động. Các xung đột ức chế truyền lên trung tâm vận mạch ít hơn. Tác dụng hãm bị loại bỏ và trung tâm vận mạch sẽ tăng cường hoạt động làm mạch co lại và tăng sức cản ngoại biên, do đó ngãn ngừa sự giảm huyết áp dù nhẹ.
Ngược lại, nếu có khuynh hưởng huyết áp tăng, hoạt động cảm áp sẽ tăng, trung tâm vận mạch bị ức chế, mạch giãn ra làm giảm sức cản ngoại biên và hạn chế bớt sự tăng huyết áp.
Khi huyết áp tăng, hoạt động cảm thụ thể áp suất tăng và có tác dụng:
- Ức chế trung tâm vận mạch làm giản mạch.
- Ức chế trung tâm tỉm mạch ở hành tuỷ: làm tim đập chậm lại.
- Ức chế trung tâm hô hấp và giảm nhịp thở.

Các yếu tố khác ảnh hưởng đến trung tâm vận mạch.
Ngoài các cảm thụ thể áp suất còn có các yếu tổ khác cũng ảnh hưởng đến trung tâm vận mạch và bằng cách thay đổi tác dụng của hệ giao cảm trên các tiểu động mạch mà ảnh hưởng đến huyết áp (Hình 40).

Trong số các yếu tổ trên thì ở một người tỉnh táo, yếu tổ quan trọng nhất ảnh hưởng đến hoạt động của trung tâm vận mạch là các trung tâm thần kinh cấp cao bao gồm các vùng vỏ não - nơi xảy ra các quá trình ý thức. Trạng thái xúc động hoặc stress kèm theo kích thích các trung tâm vận mạch do trung tâm cao hơn làm tăng co mạch và tăng sức cản ngoại biên và do đó làm tăng huyết áp. Vì thế khi khám lâm sàng, nếu đo huyết áp trong tình trạng stress kết quả sẽ cao hơn khi không có stress.
Ngược lại, có trường hợp các trung tâm cấp cao lại ức chế hoạt động của trung tâm vận mạch làm giản mạch và giảm huyết áp do làm giảm sức cản ngoại biên. Khi huyết áp giảm thấp, bệnh nhân thấy chóng mặt và ngất. Ta gặp trường hợp này ở những bệnh nhân ngất đi khi nhìn thấy máu, hoặc y tá lần đầu vào phòng mổ. Ngất là do giảm trương lực co mạch ở tiểu động mạch và cũng là ở cả các tĩnh mạch, như sẽ trình bày ở phần sau.
Nồng độ carbon dioxid trong máu có tác dụng duy trì hoạt động chính xác của trung tâm vận mạch. Thở nhanh sẽ có hại vì làm loãng nồng độ carbon dioxid trong máu và do đó một trong những hiệu quả là hạ huyết áp do giảm hoạt động của trung tâm vận mạch.
Mặt khác, giảm nồng độ oxygen sẽ kích thích trực tiếp trung tâm vận mạch và gián tiếp thông qua các cảm thụ thể hoá học (xem những phần sau) và trong giai đoạn đầu của thiếu oxy làm tăng huyết áp do tăng hoạt động vận mạch. Các cảm thụ thể hoá học cũng kích thích trung tâm vận mạch sau khi cơ thể bị chảy máu.
Nhiều dây thần kinh khác của cơ thể ảnh hưởng đến hoạt động của trung tâm vận mạch. Đau nhẹ có tác dụng kích thích trung tâm vận mạch và làm tăng huyết áp, nhưng đau quá có thể gây ra ngất x u vì ức chế hoạt động của trung tâm vận mạch.
ĐIỀU HOÀ MẠCH MÁU TẠI CHỔ
Máu đến các cơ quan của cơ thể tuỳ theo nhu cầu và cơ chế điều hoà tại chỗ cho phép tăng cung cấp máu khi cần thiết.
Dòng máu cơ
Khi luyện tập, máu đến cơ nhiều hơn. Quá trình vận cơ làm tăng các sản phẩm phế thải do chuyển hoá ở cơ và bao gồm carbon dioxid, ion K™ và các K+ chất khác. Các sản phẩm này làm giãn tiểu động mạch do làm tăng trương lực co mạch của giao cảm.
Ứ máu phản ứng
Nếu đường dẫn máu đến một chỉ bị tắc, lập tức huyết áp sẽ tăng cao hơn huyết áp tâm thu (200 mm Hg) trong năm phút, các sản phẩm chuyển hoá sẽ tích luỹ ở chi gây giãn mạch và ta có thể nhìn thấy khi máu lưu thông trở lại, da ở đó sẽ nóng và đỏ. Do dòng máu cơ và da ta thấy tăng rõ rệt.
Đau do thiếu máu
Khi cơ hoạt động, nếu máu cung cấp cho cơ không đủ (thiếu máu) sẽ gây ra hiện tượng đau (do thiểu máu) do ứ đọng các sản phẩm chuyển hoá ở cơ. Chứng đau này thường thấy khi ta giơ tay cao quá đầu và khi nắm tay rồi lại thả ra nhanh. Do tay ở vị trí cao hơn tim nên máu đến tay không đủ. Nếu như ta cũng làm như vậy đối với tay kia thì cảm giác đau do thiếu máu chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn ở tay gio cao, còn tay kia thì không hề đau.
Sự khập khiếng từng lúc
Khi đi bộ, các cơ ở chân thường bị mỏi do máu đến cơ không đủ, hiện tượng này được gọi là "sự khập khi ng từng lúc".
Sự khập khiếng không xẩy ra khi nghỉ, mà chỉ xuất hiện sau khi phải đi bộ một đoạn đường và biến mất sau khi ngừng đi bộ vài phút.
Các sản phẩm chuyển hoá bị ứ đọng là do hẹp hoặc tắc các động mạch đùi và khoeo. Trong những trường hợp nặng, ta không bắt được mạch của các động mạch khoeo, chày sau, cổ chân (Hình 46, 47). Trường hợp này có thể phải ghép động mạch để phục hồi sự lưu thông của mạch.
Sự cấp máu cho cơ tim
Khi luyện tập, lưu lượng tim lớn, nhu cầu cấp máu cho tim cũng tăng. Lượng máu nuôi tim tăng là do các động mạch vành giãn, đặc biệt khi cơ tim thiếu oxy. Bản thân cơ tim có cơ chế điều hoà tại chỗ để điều hoà lượng máu cung cấp cho chính nó. Nếu các tế bào cơ tim không nhận đủ lượng oxygen cần thiết, mạch vành sẽ giãn và do đó máu đến nuôi cơ tim sẽ tăng.
Cơn đau thắt ngực
Tắc một phần động mạch vành làm thiếu máu cơ tim gây triệu chứng đau, và được gọi là cơn đau thắt ngực. Cơn đau xuất hiện khi luyện tập. Cảm giác đau không khu trú ở vùng tim mà lan toả khắp ngực, bệnh nhân thường có cảm giác đau thắt vông quanh ngực và lan xuống mặt trong cánh tay.
Nitrit và một vài nitrat có tác dụng giãn động mạch vành. Thí dụ viên glyceryl trinitrat tan chậm khi đặt dưới lưỡi, hoặc có thể nuốt nếu là viên nhộng, tan chậm, được dùng để điều trị cơn thiểu máu cơ tim cấp tính. Người ta cũng có thể dùng loại thuốc này để phòng trước cơn đau thắt ngực bằng cách dùng trước khi đi dạo chơi (chất này cũng làm giãn mạch não và gây đau đầu).
Trong tắc hoàn toàn các mạch vành, triệu chứng đau kéo dài ngay cả lúc nghỉ.
Sự cung cấp máu cho tuyến nước bọt.
Tuyến nước bọt là một thí dụ về một cơ quan được tăng cấp máu nhờ hoạt động của hệ thần kinh. Các sợi phó giao cảm đến tuyến nước bọt làm giăn mạch và làm tăng cấp máu cho tuyến nước bọt khi bài tiết nhiều nước bọt. Điều này rất quan trọng vì nước bọt được bài tiết từ máu.
Dòng máu đến da
Da là cơ quan duy nhất mà lượng máu đến không phụ thuộc vào nhu cầu chuyển hoá của da. Sự điều hoà dòng máu đến da liên quan với quá trình điều nhiệt của toàn thân. Khi cơ thể quá nóng mạch máu da giãn, máu được dẫn đến làm tăng thải nhiệt. Ngược lại khi bị quá lạnh, mạch máu dưới da co lại, làm giảm toả nhiệt để giữ nhiệt cho cơ thể. Sự thay đổi dòng máu đến da một phần là do tác động trực tiếp của nhiệt trên mạch máu da (nóng làm giãn mạch, lạnh làm co mạch); một phần do tác dụng của nhiệt lên trung tâm điều nhiệt hypothalamus làm thay đổi trương lực hệ giao cảm trên mạch máu da. Khi nóng, trương lực giao cảm giảm, mạch máu giãn. Khi lạnh, trương lực giao cảm tăng, mạch máu co. Các mạch máu da cũng nhậy cảm với kích thích cơ học hoá học, sự đáp ứng đó được gọi là phản ứng da.
CÁC PHẢN ỨNG DA
Vệt trắng.
Nếu ta dùng đầu kim cùn miết lên da, sau khoảng 15 giây tại vùng da đó xuất hiện vệt trắng do mao mạch ở đó co lại và do máu tại đó bị ép ra khỏi các mao mạch nằm ở dưới.
Đáp ứng bộ ba.
Nếu ta dùng kim sắc, sẽ thấy một vệt đỏ. Với áp suất mạnh hơn, mao mạch giãn và thể hiện bằng vệt đỏ (Hình 41).

Xung quanh vệt đỏ là tán da đỏ, do giãn tiểu động mạch. Hiện tượng giãn các tiểu động mạch xảy ra khi đường thần kinh cảm giác còn nguyên vẹn và do các phản xạ sợi trục. Các sợi thần kinh cảm giác từ da đi qua các rễ thần kinh lưng của tuỷ sống, có nhánh đến các mạch máu tại vùng có các thụ thể cảm giác (Hình 42). Các thụ thể cảm giác không chỉ truyền xung động thần kinh về tuỷ sống mà còn vòng qua phản xạ sợi trục đến các tiểu động mạch. Chính những xung động này làm giãn các tiểu động mạch. Vùng tán đỏ là vùng phân bổ các tiểu động mạch và ranh giới của nó không đều. Vùng tán đỏ bị gồ lên vì tăng ứ đọng dịch kẽ. Đó là kết quả của sự tăng tính thấm mao mạch. Vùng gồ cao đó được gọi là vùng mề đay. Cả ba hiện tượng xảy ra là vệt đỏ, quầng đỏ, phù nề được gọi là đáp ứng bộ ba (Hình 41).

Đáp ứng bộ ba của da là một, không kể tổn thương như thế nào. Làm sước da vói kim, axit, kiềm, nóng, lạnh hoặc dòng điện thì cũng có cùng một đáp ứng như vậy. Những tác nhân trên làm tổn thương da là do có liên quan đến sự giải phóng histamin. Nếu ta tiêm histamin vào da thì nó cũng gây ra đáp ứng bộ ba điển hình.
Histamin cũng được giải phóng ở da sau một phản ứng kháng nguyên - kháng thể. Do đó một người bị dị ứng với một loại thức ăn nào đó như dâu tây. hoặc tôm hùm, protein của thức ăn có tác dụng như một kháng nguyên và cơ thể sản sinh ra một chất (kháng thể) để phá huỷ kháng nguyên đó. Phản ứng kháng nguyên - kháng thể sẽ giải phóng histamin và gây phát ban ở da đi kèm theo những dị ứng đó. Histamin được giải phóng cũng gây co thắt khí quản.
Thuốc kháng histamin là thuốc đối lập tác dụng của histamin trên thụ thể Hị, và do đó làm giảm đáp ứng bộ ba.
Sự quá tăng giãn mạch dẫn tới hạ huyết áp
Khi cơ chế tại chỗ thắng trương lực co mạch trung ương tạo ra giãn mạch tại chỗ. Đẻ duy trì cùng một huyểt áp co mạch, thường phải nhiều hơn ở những vùng mà trương lực mạch vẫn còn chịu sự điều hoà của trung tâm vận mạch. Nếu sự co mạch này không thực hiện được, huyết áp sẽ giảm và người đó sẽ bị ngất. Trong những trường hợp nặng, tuần hoàn máu có thể bị rối loạn, bệnh nhân sẽ ngất, thí dụ khi lao dộng trong môi trường quá nóng, hoặc trong trường hợp shock quá mẫn do giải phóng quá mức histamin.
CÁC HORMON TUỶ THƯỢNG THẬN
Tuỷ thượng thận giải phóng hai hormon adrenalin và noradrenalin (catecholamine). Noradrenalin có tác dụng co mạch nói chung, trong khi đó adrenalin co mạch da nhưng giản mạch cơ. Cả hai hormon đều làm tăng lực co bóp của cơ tim.
ANGIOTENSIN
Angiotensin II là một peptid nho (8 axit amin) được tạo thành khi thận giải phóng renin.
Angiotensinogen (protein huyết tương) + renin -> angiotensin
Angiotensin lưu thông trong máu và có tác dụng co mạch (xem tăng huyết áp).
Tóm tắt các yếu tố ảnh hưởng đến kích thước tiểu động mạch.
Hình 43 mô tả tóm tắt các yếu tổ chính ảnh hưởng đến kích thước các tiểu động mạch.

MẠCH
Hình 44-47 mô tả các điểm bắt mạch trong cơ thể, dễ sờ nắn nhất và - thường là dễ thấy.
Bắt mạch để xác định tần số tim tức là đếm chu kỳ tim có trong một phút. Bắt đầu tính thời gian bằng mạch đập đầu tiên và mạch đập đầu tiên này được đếm là 0, mạch tiếp theo là 1, rồi mạch tiếp theo nữa là 2 và cứ như thế.
Thước kẻ hay thước dây dùng để đo độ dài đều bắt đầu bằng số 0 chứ không phải số 1, và người ta cũng dùng cách này để đếm tần số tim.

Mạch quay là mạch thường dùng để đếm tần số tim. Điều quan trọng cần nhớ là bắt được mạch quay có nghĩa là nhận biết được sự thay đổi áp suất máu trong động mạch quay. Trong thời kỳ tâm thu, áp suất máu ở động mạch tăng nhanh từ 80 mmHg đến 120 mmHg, nhanh chóng được truyền qua các nhánh động mạch với tốc độ sáu mét giây và sự thay đổi áp suất này cần khoảng 1/10 giây để tới cổ tay.

Cần chú ý phân biệt giữa áp suất máu và dòng máu chảy. Sau một nhịp co bóp, máu từ tim được đẩy vào động mạch, máu chảy trong động mạch chậm hơn nhiều và phải mất nhiều giây nghĩa là sau nhiều co bóp máu mới chảy đến cổ tay.
Mạch đập chứng tỏ giữa tim và điểm bắt mạch có những đường mạch máu chính mở thông thì sự kiện không bắt được mạch không nhất thiết có nghĩa là không có dòng máu chảy trong động mạch. Mạch đập là do huyết áp dao động từ huyết áp tâm thu (120 mmHg) đến huyết áp tâm trương (80 mmHg). Nếu vì lý do nào đó không có sự khác nhau giữa huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương và huyết áp trung bình là 100 mmHg thì dòng máu vẫn chảy hẳn hoi, nhưng có thể lại không bắt được mạch.
Chính sức cản dòng máu ở gần điểm bắt mạch làm mất đi sự khác nhau về áp suất giữa thời kỳ tâm thu và tâm trương. Như vậy, vì có sức cản của tiểu động mạch nên trong mao mạch không có sự giao động về huyết áp. Cũng tương tự như vậy, nếu trên đường đi của động mạch có sự tắc nghén, mạch đập sẽ thay đổi hoặc mất. Trong trường hợp tắc nghên hoàn toàn, máu chảy qua hệ thống mạch nối.

Hẹp động mạch chủ
Tắc nghẽn quai động mạch chủ ở vị trí ống động mạch được gọi là hẹp động mạch chủ. Máu lưu thông đến các chi dưới qua hệ thống mạch nối và đôi khi có thể bắt được mạch đập ở các động mạch liên sườn khi đặt tay trên lưng để nâng bệnh nhân dậy. Mạch ở chân có thể yếu hoặc không bắt được và huyết áp ở động mạch đùi sẽ thấp hơn huyết áp ở động mạch cánh tay.
Mạch tĩnh mạch cổ.
Khi nằm nghỉ, có thể nhìn thấy mạch tĩnh mạch cổ ở một bên cổ (Hình 48), do có những thay đổi nhỏ về áp suất được truyền từ tâm nhĩ phải. Trong một chu chuyển tim, áp suất tĩnh mạch cổ có ba số tối đa a, c, v và hai số tối thiểu x, y (hình 49). Mạch tĩnh mạch quá yếu nên khó sở thấy.
Trong thời kỳ tâm thất thu, đáy tâm nhĩ bị kéo về phía tâm thất, áp suất trong tâm nhĩ phải giảm nhanh (thể hiện ở điểm x và y) và máu được hút về tâm nhĩ phải

ĐO HUYẾT ÁP
Phương pháp chuẩn để đo huyết áp của bệnh nhân là phương pháp của Korotkov (năm 1905). Quấn một băng (có thể bơm căng) quanh phần trên cánh tay, quấn sát nhưng không quá chặt, chừa một khoảng trống khoảng 5 cm kể từ khuỷu tay đến mép dưới của băng vải. Bơm căng băng vải bằng một bơm tay nhỏ, áp suất trong băng vải được đo bằng áp kế thuỷ ngân (hình 50). Dụng cụ này được gọi là máy đo huyết áp.
Áp ngón tay vào vùng khuỷu để bắt mạch động mạch cánh tay. Duổi thẳng cánh tay ta có thể nhìn thấy mạch cánh tay đập vì nó nằm trên bờ giữa của gân cơ nhị đầu.
Cần chú ý rằng không thể dùng ống nghe định vị động mạch cánh tay vì dòng máu trong động mạch này là "dòng máu lặng" (lamina) và ta không nghe được tiếng nào cho đến khi băng vải của máy đo huyết áp đã được bơm phồng.

Dùng các ngón tay của một tay để bắt mạch quay ở cổ tay, còn tay kia bơm căng băng vải quấn quanh cánh tay bệnh nhân, bơm cho tới áp suất mà ta không bắt được mạch quay. Cách làm này đảm bảo rằng áp suất trong băng vải vượt kha khá trên khoảng im lặng (Hình 51).

Sau đó đặt ống nghe trên động mach cánh tay và hạ dần áp suất trong băng vải. Để làm cho áp suất giảm từ từ liên tục cần phải mở van từ từ.
Áp suất giảm dần cho tới khi bằng áp suất tâm thu, ta nghe thấy tiếng đập tương ứng với nhịp tim. Ghi nhận áp suất làm cho ta nghe được thấy tiếng đập đầu tiên. Đó là áp suất tâm thu. Tiếp tục hạ áp suất trong băng vải xuống, tiếng đập to dần, nhưng đến áp suất tương ứng với áp suất tâm trương đột nhiên tiếng đập thay đổi chất lượng và sau đó không nghe được tiếng đập. Tiếp tục hạ áp suất xuống thấp một chút nữa, tiếng đập không xuất hiện lại. Áp suất làm cho ta không nghe thấy tiếng đập là áp suất tâm trương.
Khoảng cách im lặng. Đôi khi đo huyết áp những bệnh nhân tăng huyết áp ta có thể thấy "khoảng im lặng" (hình 50). Khi áp suất trong băng vải hạ từ 300 mmHg, ta có thể nghe được tiếng đập nhẹ ở mức áp suất 220 mmHg. Sau đó quanh mức áp suất 180 mmHg tiếng đập biến mất và lại nghe thấy khi huyết áp ở mức 150 mmHg. Như vậy có một khoảng im lặng giữa hai mức áp suất 180 và 150 mmHg. Ấp suất tiếp tục hạ và đến 100 mmHg đột nhiên không nghe rõ và tiếng đập biến mất ở 85 mmHg và sau đó không xuất hiện lại. Như vậy huyết áp của bệnh nhân này là 220/100 mmHg.
Mặc dù hiện tượng này ít thấy nhưng "khoảng im lặng" được coi là cái bắy đối với người thiếu thận trọng, nhất là những người thường, máy móc chỉ bơm áp suất băng vải lên đến 160 mmHg mà lẽ ra phải bơm cho đến khi không bắt được mạch quay như đã tả ở trên.
Hình 51 cho thấy toàn bộ vùng có tiếng đập Korotkov ở đoạn trên có thể không phát hiện được và như vậy ta sẽ nói rằng áp suất tâm thu là 150 mmHg trong khi thực ra phải là 220 mmHg.
Hoặc là tính đúng huyết áp tâm thu là 220 mmHg thì lại ghi sai huyết áp tâm trương là 185 mmHg.
Khi không nghe thấy tiếng đập ở mức đã ghi nhận cần phải tiếp tục hạ áp suất xuống để đảm bảo tiếng đập không xuất hiện trở lại. Bằng cách này ta sẽ không bị nhầm vào giải tiếng đập Korotkov ở vùng trên.
Khi dùng ống nghe, cần lắp ổng nghe đúng vào tai. Đầu ống nghe lắp vào tai phải theo chiều vào trong, và ra trước nếu nhìn từ trên xuống. Cần thận không được chạm vào chụp ống nghe, nếu đặt sai chỗ ta sẽ nghe thấy những âm lạ. Vì tiếng đập Korotkov rất yếu nên không thể đo chính xác huyết áp ở những nơi ồn ào. Điều quan trọng là không được giữ áp suất lớn trong băng vải quá lâu và phải mở van để hạ áp suất xuống 0 mmHg sau mỗi lần đo.
Huyết áp hầu hết mọi người thường dao động khoảng 10mm Hg hoặc theo nhịp thở cũng vậy. Vì thế không cần đo chính xác huyết áp cuả mọi người đến từng milimét thủy ngân (ví dụ 117/82 mmHg), trừ phi ta đo riêng huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương theo từng thời kỳ hô hấp. Trong hầu hết các trường hợp chỉ cần đọc đến 5 mmHg (ngay cả 10mmHg) là đủ độ chính xác và phương pháp mày đã được xác nhận là đúng.
Huyết áp động mạch đùi
Người ta có thể dùng phương pháp trên để đo huyết áp động mạch đùi (kheo). Đo đường kính bắp đùi lớn nên phải dùng băng vải lớn và gọi là băng đùi. Đối tượng nằm sấp và ta quấn băng đùi vào đùi (hình 52)

Để đo huyết áp động mạch đùi người ta cũng dùng phương pháp như đo huyết áp động mạch cánh tay. Đặt ống nghe vào giữa tam giác khoeo (phía sau đầu gối) thay cho đặt vào tam giác trụ ở khuỷu (hình 52) và bắt mạch chày sau vì nó chạy sau mắt cá giữa, thay cho việc bắt mạch quay khi đo huyết áp động mạch cánh tay. Huyết áp động mạch đùi cũng được xác định bằng tiếng đập KOROTKOV như trong trường hợp đo huyết áp động mạch cánh tay. Tiếng đập xuất hiện trong băng giảm đến mức bằng áp suất tâm thu động mạch đùi và nhỏ dần khi hạ áp suất đến mức huyết áp tâm trương.
Đo Huyết áp ở bệnh nhân không có mạch
Nếu bệnh nhân không có mạch, không thể nghe thấy tiếng đập KOROTKOV. Trường hợp này cần đo huyết áp theo kiểu sau: tay của đối tượng được giữ thẳng đứng để dồn máu về tỉnh mạch và mao mạch. Bơm áp suất đến 200mmHg hoặc cao hơn để cắt đứt tuần hoàn máu.’Sau đó đặt thấp cánh tay xuống và thấy tay tái nhợt.
Hạ dần áp suất xuống từng bước 10mmHg, và sau mỗi lần giảm áp suất quan sát sự thay đổi màu sắc. - Dấu hiệu chứng tỏ máu lưu thông trở lại. Ghi lại đồng thời mức áp suất làm thay đổi màu sắc và làm tỉnh mạch mu bàn tay nổi. Áp suất này thấp hơn huyết áp tâm thu một chút, nếu không có tiếng đập và huyết áp tâm thu và tâm trương như nhau, thì áp suất này dưới huyết áp trung bình.
TRỌNG LỰC VÀ HUYẾT ÁP
Nhờ có trọng lực nên cứ thấp hơn so với tim 12cm thì huyết áp tăng 10mmHg, và ngược lại cứ cao hơn tim 12cm huyết áp giảm 10mmHg. Do đó, huyết áp tâm thu ở bàn chân là 210mmHg, nhưng chỉ là 90mmHg ở não khi ở tư thế đứng. Khi nằm, huyết áp ở hai vị trí này như nhau (120mmHg).
TĂNG HUYẾT ÁP
Nếu huyết áp quá cao, ta gọi là tăng huyết áp. Ranh giỏi chính xác để phân biệt giữa huyết áp không còn là bình thường và thuộc vào loại tăng huyết áp đã được bàn luận nhiều vì vấn đề quan trọng là dòng máu chứ không phải là huyết áp. Như vậy có lẽ tăng huyết áp là huyết áp cao hơn mức người ta qui định.
Huyết áp tâm thu bình thường lúc nghi ngơi là 120mmHg (16KРа), nhưng có thể tăng tới 160mmHg (21KPa) hoặc cao hơn khi bị xúc động. Huyết áp tâm trương lúc nghi bình thường là 80mmHg (10,7KPa). Khi xúc động huyết áp tâm trương cũng tăng, nhưng tăng ít hơn. Nếu huyết áp tâm trương quá 110mmHg (15KPa), lúc nghỉ là không bình thường, và có thể coi là tăng huyết áp. Ở những trường hợp tăng huyết áp nặng, huyết áp tâm thu có thể đo được trên 300mmHg (40KРа).
Tăng huyết áp làm tâm thất trái làm việc quá sức vì phải bơm máu dưới áp suất cao, cuối cùng đẫn tới suy tim.
Huyết áp cao trong bệnh tăng huyết áp có thể làm võ mạch máu, nhất là các mạch máu não (tai biến mạch máu não), gây chảy máu não và cắt đứt đường dẫn truyền vận động từ vùng vận động của vỏ não đến tuỷ sống. Các đường dẫn truyền vận động bắt chéo sang bên đối diện, vì thế gây liệt nửa người bên đối diện (tắc hoặc co thắt những mạch máu này do nguyên nhân khác cũng gây ra những triệu chứng tương tự).
Tăng huyết áp là hậu quả của sự tăng cao lưu lượng tim hoặc tăng cao sức cản ngoại biên. Nếu lưu lượng tim quá cao, ta có thể dùng các thuốc ức chế Beta như là propranolol để phong bế hoạt động của hệ giao cảm đối với tim, và làm giảm nhịp tim, giảm lực co bóp của tâm thất. Các thuốc này có giá trị ức chế sự tăng lưu lượng tim kết hợp với xúc cảm là yếu tố làm tăng nhanh cơn tăng huyết áp. Có thể dùng xen kẽ các thuốc lợi tiểu để làm giảm thể tích máu, do đó làm giảm lưu lượng tim. Trong đa số trường hợp làm tăng huyết áp, lưu lượng tim bình thường, vì thế mục đích điều trị là làm giảm sức cản ngoại biên. Hình 53 mô tả các khía cạnh chủ yếu để từng bước làm giảm sức cản ngoại biên.

Thuốc an thần và thuốc giảm đau làm giảm tác dụng của trung tâm cấp cao hơn đối với trung tâm vận mạch.
Trong bệnh tăng huyết áp, ngưỡng kích thích của các thụ thể áp suất thay đổi. Do đó hoạt động của các thụ thế áp suất không đủ áp chế trung tâm vận mạch để giảm huyết áp xuống. Có thể tăng ức chế trung tâm vận mạch bằng cách kích thích điện dây thần kinh giảm áp (dùng các điện cực cấy sẵn). Tuy nhiên, cần nhỏ rằng dây thần kinh xoang và dây thần kinh động mạch chủ gồm các sợi dẫn truyền nhận cảm hoá học sẽ còn làm tăng huyết áp nữa.
Tác dụng của trung tâm vận mạch lên các mạch máu thông qua hệ thần kinh giao cảm. Có thể cắt đứt con đường này bằng cách cắt đứt con đường giao cảm. Cũng có thể dùng xen kẽ các loại thuốc phong bế hạch giao cảm như hexamethonium hoặc pentolinium để ngăn dẫn truyền xung động thần kinh từ các sợi giao cảm trước hạch đến các sợi sau hạch.
Noradrnnalin là chất dẫn truyền hoá học được giải phóng từ những tận cùng giao cảm sau hạch. Có thể dùng các thuốc ức chế tổng hợp, ức chế sự giải phóng, ức chế tác dụng của noradrenalin hoặc làm huỷ hoại nhanh tại đây. debrisoquin, guanathidin. bethanidind đều có tác dụng ức chế giải phóng noradrenalin. Methyldopa tạo ra những dạng không bình thường của noradrenalin (methylnoradrenalin), dạng này có tác dụng yếu hơn và ức chế các thụ thể.
Nguyên nhân của đa số các trường hợp tăng huyết áp không rõ (tăng huyết áp nguyên phát). Có trường hợp việc điều trị nguyên nhân sẽ giải quyết được chứng bệnh tăng huyết áp. Thí dụ thận thiếu máu giải phóng renin có tác dụng trên protein huyết tương và tạo ra chất peptit là angiotensin. Chất này có tác dụng co mạch mạnh với liều lượng vừa đủ sẽ làm tăng huyết áp. Nếu cắt bỏ thận tổn thương để lại thận lành, huyết áp sẽ trở lại bình thường.
Trong u tuyến tuỷ thương thận, hormon adrenalin và noradrenalin được bài tiết nhiều làm tăng huyết áp vì tác dụng trên tim và mạch máu. Cắt bỏ u sẽ chữa được bệnh tăng huyết áp. Bệnh Cushing do tuyến vỏ thượng thận bài tiết quá nhiều corticoid, làm tăng thể tích máu do đó làm tăng huyết áp.
GIẢM HUYẾT ÁP QUA VÒNG TUẦN HOÀN
Huyết áp ở động mạch chủ có trị số tối đa là 120mmHg (16kPa) và trị số tối thiểu là 80mmHg (10,7kPa) và trị số trung bình khoảng 100mmHg (13kРа). Máu chảy từ các động mạch lớn đến các tiểu động mạch và qua mao mạch đến các tỉnh mạch, vì huyết áp giảm dần nên máu chảy từ vùng có huyết áp có huyết áp cao đến nơi có huyết áp thấp hơn. Khi máu chảy qua các động mạch, huyết áp giảm rất ít, nhưng huyết áp giảm rõ rệt khi máu chảy qua các tiểu động mạch. Ở cuối động mạch huyết áp giảm còn 100mmHg (13kPa), đến đầu mao mạch phía tiểu động mạch huyết áp giảm xuống 32mmHg, (4,3kPa). Huyết áp giảm xuống 12mmHg (1,6kPa) rồi xuống OmmHg (0kPa) khi máu chảy về theo các tĩnh mạch.
Huyết áp giảm nhiều ở tiểu động mạch, vì tại dó có sức cản dòng máu. Nếu mọi người đều muốn rời phòng thật nhanh qua một của nhỏ, trong phòng sẽ có một áp suất lớn, nhưng nếu mỗi lần một người vượt quá vật cản (của) thì áp suất sẽ mất. Do đó trước vật cản áp suất lớn và sau vật cản áp suất sẽ nhỏ. Trong vòng tuần hoàn sức cản ngoại biên chủ yếu nằm ở tiểu động mạch và do đó trước tiểu động mạch áp suất cao, sau tiểu động mạch áp suất thấp.
Hình 54 minh hoạ sự giảm áp suất khi máu chảy từ các động mạch và mao mạch rồi đến các tỉnh mạch. Như vậy, máu chảy từ các nơi có áp suất cao đến các nơi có áp suất thấp.

Do tính đàn hồi của động mạch chủ và các động mạch lớn, và sức cản ở các tiêu động mạch, máu đến mao mạch liên tục. Nhờ tính đàn hổi nên máu vẫn chảy trong động mạch trong thời kỳ tâm trương, mặc dù tâm thất không bơm máu vào động mạch. Mỗi lần tâm thất thu, máu được bơm vào động mạch làm cho huyết áp tăng từ 80mmHg (10,7kPa) lên 120mmHg (16kPa). Cắt đứt mao mạch và tĩnh mạch máu không phun ra mà chỉ chảy từ từ, vì áp suất máu trong mao mạch và tỉnh mạch không dao động theo nhịp bóp của tỉm.
Tóm Tắt
Huyết áp được xác định bởi lưu lượng tim và súc cản ngoại biên:
Huyết áp = lưu lượng tim x súc cản ngoại biên. 11
- Sức cản ngoại biên chủ yếu phụ thuộc vào kích thước các tiểu động mạch. Nó cũng phụ thuộc vào độ quánh của máu.
- Các tiểu động mạch luôn ở trạng thái co, do tác đụng của trung tâm vận mạch ở hành tuỷ qua hệ thần kinh giao cảm ( trương lực giao cảm Trương lực này duy trì sức cản ngoại biên và do đó tạo nên huyết áp.
- Các thụ thể áp suất làm giảm hoạt động của trung tâm vận mạch và "điều chỉnh "những thay đổi huyết áp.
- Các trung tâm cấp cao hơn thông qua trung tâm vận mạch cũng có thể làm tăng huyết áp nhu khi xúc cảm, hoặc giảm huyết áp gây ngất, như trường hợp quá đau đón,shock.
- Cơ chế tại chỗ cũng cỏ ảnh hưởng đến kích thích tiểu động mạch trong một cơ quan và có thể thắng được sự điều hoà của trung tâm vận mạch.
