THĂM DO CHỨC NĂNG HỔ HẤP
Tế bào sông luôn luôn đòi hỏi cung cấp oxy để sử dụng trong quá trình chuyển hoá chất và chuyển hoá năng lượng đồng thời quá trình chuyển hoầ lại tạo ra CO2 cần phải đưa ra ngoài để giữ một sự cân bằng tương đối của nội môi. Một cơ thể đơn bào có thể trao đổi trực tiếp vỏi môi trường bên ngoài, nhận oxy từ môi trường bên ngoài đưa vào cơ thể để sử dụng đồng thòi CO 2 cũng được thải ra ngoài môi trường. Đốì với động vật đa bào, đặc biệt vối cấu trúc phức tạp như cơ thể con người thì cơ thể trong đó các tế bào sống không thể trao đổi trực tiếp với môi trường bên ngoài mà phải thông qua một bộ máy chuyên biệt để cung cấp oxy và đào thải CO2. Bộ máy này được gọi là bộ máy hô hấp. Bộ máy hô hấp của người và động vật có vú gồm có đường dẫn khí, phổi, trung tâm điểu hoà hô hấp và còn có máu vận chuyển các chất khí và sự sử dụng oxy của tế bào được gọi là hô hấp tế bào. Bộ máy hô hấp nhằm thực hiện chức năng thông khí và trao đổi khí ở phổi, vận chuyển khí ở máu, trao đổi và sử dụng khí ở tế bào, điều hoà hô hấp và có vai trò trong điều hoà thảng bằng toan kiềm của máu và của dịch ngoại bào. Rối loạn chức năng của một bộ phận nào của bộ máy hô hấp đều có thể dẫn đến những quá trình bệnh lý khác nhau.
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC, SỰ LIÊN QUAN GIỮA CÂU TRÚC VÀ CHỨC NĂNG CỦA BỘ MÁY HÔ HẤP
Đường dẫn khí
cấu trúc của đường dẫn khí
Đường dẫn khí gồm có mũi hoặc miệng, sau đó đến hầu (họng), thanh quản, khí quản, phê quản, các tiểu phế quản và tiểu phế quản tận trưốc khi không khí vào ống phế nang đến túi phế nang và các phê nang. Đường dẫn khí có chức năng dẫn khí từ ngoài vào đến các phế nang và khí từ phế nang ra ngoài, nó không phải là những ống dẫn thụ động mà có cấu trúc đặc biệt để thực hiện chức năng một cách tốt nhất.
Đường hô hấp trên
- Mũi là cửa ngõ đầu tiên không khí từ bên ngoài cơ thể đi vào đường dẫn khí. Nhò có hệ thống lông mũi đã giữ lại các hạt bụi to trên 5 micromét. Không khí khi vào qua mũi phải đi qua các cuốh mũi và vách ngăn rồi mới xuống được đến họng. Dọc theo niêm mạc của cuôn mũi và vách ngăn có hệ thống mao mạch phong phú và có các tuyến tiết nhầy tiết nưồc do đó không khí được sưởi ấm và làm ẩm một phần.
- Trong những trường hợp không khí không đi theo đường mũi, nó có thể qua đường miệng để đến hầu. Chúng ta thường gặp thở qua đường miệng trong những trường hợp ngạt mũi, tắc mũi do cuốn mũi và các vách mũi bị giãn các máo mạch làm hẹp đường dẫn, hoặc do polyp hoặc do vẹo các vách ngăn v.v. làm chít hẹp đường dẫn. Khi thỏ qua đường miệng thường phải há mồm để thỏ, không khí không được sưởi ấm và làm ẩm và các hạt bụi to không bị ngăn lại. Thở qua đường miệng trong thòi gian kéo dài làm cho ta có cảm giác khô miệng và khó chịu.
- Hầu là ngã ba nôi mũi hoặc miệng vối thực quản và thanh quản. Hầu chia làm hai nhánh, nhánh đi phía sau là thực quản, nhánh đi phía trưóc dẫn đến thanh quản để xuống khí quản. Vì hầu là ngã ba như vậy nên trong một số trường hợp rối loạn phản xạ nuốt hoặc đóng mở thanh quản đểu có thể gây sặc thức ăn vào đường dẫn khí gây nên các rôì loạn hô hấp hoặc gây nên một sô' biểu hiện bệnh lí của phôi, thậm chí có thể gây nguy hiểm đến tính mạng do sặc hoặc rơi các dị vật to vào thanh khí quản mà không được cấp cứu kịp thời.
- Thanh quản được cấu tạo bởi hai dây thanh âm có chức năng đóng mở để cho không khí xuống khí quản hoặc đi ra ngoài. Khi hai dây thanh âm mở ra, không khí đi ra ngoài làm rung hai dây thanh âm tạo nên phát âm và tạo ra tiếng nói, tiếng cười hoặc tiếng khóc. Như yậy ngoài chức năng dẫn khí, hai dây thanh âm còn có chức năng phát âm. Khi nuốt hai dây thanh âm cũng đóng lại để thức àn không đi vào đường dẫn khí. Trẻ sơ sinh khi mới đẻ ra động tác hô hấp đầu tiên được biểu hiện bằng tiếng khóc đầu tiên là do động tác thỏ ra làm rung hai dây thanh âm gây nên tiếng khóc đầu tiên.
Đường hô hấp dưới
Đường hô hâ'p dưới bắt đầu từ khí quản đến phế quản và các tiểu phế quản. Để có thể xác định được vị trí giải phẫu và ứng dụng trong lâm sàng khi soi phế quản, đường hô hấp dưói được chia ra thành các thế hệ (các mức hoặc các đoạn). Thế hệ sô' không của đường hô hấp dưối là khí quản, sau đó hai phế quản gô'c trái và phải được xếp là thế hệ thứ nhất, tiếp theo ở mỗi một bên của phổi cứ mỗi lần phân chia là một thế hệ. Có từ hai mươi đến hai mươi ba thế hệ trước khi đến phế nang. Từ thế hệ thứ mười là các tiểu phế quản, từ thế hệ thứ mười sáu là các tiểu phế quản tận sau đó là các tiểu phế quản hô hấp gồm thê hệ mười bảy, mưòi tám, mười chín. Các ống phê nang từ thế hệ thứ hai mươi, hai mốt và hai hai. Từ các ông phế nang là đơn vị hô hấp nhỏ nhất của phổi. Từ thê hệ số 0 (khí quản) đến thế hệ thứ 16 (tiểu phế quản tận cùng) đường hô hấp (đường dẫn khí) chỉ có chức nàng dẫn khí. Từ thê hệ thứ 17 trở đì đường dẫn khí bên cạnh chức năng dẫn khí còn có các phế nang làm nhiệm vụ trao đổi khí.
Như vậy không khí khi vào đến các phế nang có đặc điểm là đã được lọc sạch, được bão hoà hơi nước và được sưỏi ấm lên tới nhiệt độ bằng với nhiệt độ trung tâm của cơ thể (khoảng 37°C). Đây là điều kiện tốĩ ưu để không khí ở phê nang đi vào quá trình trao đổi khí giữa phế nang và máu. Điều kiện tốỉ ưu này thực hiện được là nhờ có cấu trúc của đường dẫn khí có những cấu trúc phù hợp để đảm bảo được những chức năng chủ yếu của đường dẫn khí.
Bên cạnh chức năng dẫn khí là chức năng chính, đường dẫn khí còn có những chức năng khác nhò có những cấu trúc đặc biệt.
Các chức năng của đường dẫn khí
Chức năng bảo vệ
Chức năng bảo vệ được thực hiện ngay từ khi không khí đi qua đường mũi. Hệ thốhg lông mũi đã có tác dụng cản các bụi to và chỉ có những bụi hô hấp (bụi có đường kính < 5pm) mới vào đến được các phê nang.
Trên đường dẫn khí bề mặt của lốp biểu mô lát mặt ngoài đường dẫn khí có hệ thống lông mao luôn luôn chuyển động về phía hầu có xu hướng đẩy dần các dị vật, các hạt bui, vi khuẩn ra phía ngoài. Các tuyến ở lớp biểu mô luôn tiết dịch nhầy có tác dụng tráng lên bề mặt ống dẫn khí xuống tối các tiểu phế quản. Nhò lốp dịch nhày này các hạt bụi bị bám dính giữ lại và được đẩy ra ngoài nhờ sự chuyển động của lóp lông mao của biểu mô. Có thể xem sự chuyển động theo hướng đẩy ra phía ngoài của hệ thống lông mao và sự dính của các hạt bụi, vi khuẩn v.v lên lớp dịch nhày phủ trên bề mặt đường dẫn khí như là một cơ chế thanh thải (clearance) (hay còn gọi là cơ chế làm sạch không khí hữu hiệu). Cơ chê này có tác dụng chống bụi và góp phần chông nhiễm khuẩn vì có rất nhiều vi khuẩn xâm nhập vào theo con đường thở cùng với bụi. Hàng rào bảo vệ ban đầu này của cơ thể theo cơ chế trên mang tính cơ học nhưng lại rất quan trọng vì nêu do một nguyên nhân nào đó (có thể do các chầ't độc hại) làm liệt cử động của hệ thông lông mao thì cũng có thể dẫn đến tình trạng dễ mắc các bệnh nhiễm trùng phổi. Khói thuốc lá là một trong số các chất độc hại có thể làm liệt cử động của hệ thông lông mao. Các tế bào thực bào rất nhiều ở lớp biểu mô lát bề mặt đường dẫn khí cũng có tác dụng bảo vệ. Nó ăn các hạt bụi và các vi khuẩn.
Chức năng điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm của không khí hít vào
Hệ thống mao mạch ở mũi, họng hầu và ở đường hô hấp dưới cỏ tác dụng điêu chỉnh nhiệt độ không khí hít vào khi đến phế nang đạt được nhiệt độ gần bằng nhiệt độ trung tâm của cơ thể (khoảng 37°C).
Không khí hít vào khi vào đến phế nang còn được bão hoà hoi nước nhờ có các tuyến bài tiết nước nằm ở láp biểu mô lát mặt ngoài đường dẫn khí.
Chức năng phát âm
Hai dây thanh âm rung động khi có dòng khí đi qua, nó góp phần thực hiện chức năng phát âm và tham gia một khâu trong sự hình thành ngôn ngữ. Ngoài chức năng phát âm góp phần tạo thành ngôn ngữ, hai dầy thanh âm còn góp phần tạo nên tiếng cười, tiếng khóc, tiếng thở dài, là những biểu hiện của tình cảm vui, buồn hoặc lo nghĩ v.v. Tuy nhiên chức nàng phát âm gắn liền với tiếng nói là một quá trình phức tạp và sẽ được trình bày trong một phần riêng.
Chức năng dẫn khí của đường dẫn khí
Chức năng dẫn khí thực hiện đựơc là nhờ sự thông thoáng của đường dẫn khí và là chức năng chính của đường dẫn khí. Khí quản có những vòng sụn bao quanh và chiếm 5/6 chu vi của lòng khí quản. Nhờ có những vòng sụn này mà khí, phế quản không bị xẹp xuống. O phế quản các vòng sụn ngắn hơn nhưng khi đến các tiểu phế quản thì vòng sụn hoàn toàn biến mất và đựơc thay thế hoàn toàn bằng các sợi cơ trơn (cơ Reissessen). Ó khí quản và phế quản trong phần không có vòng sụn nó có cấu trúc các sợi liên kết, sợi chun và cũng có một số sợi cơ trơn. Sự co hoặc giãn các cơ trơn làm hẹp lại hoặc mỏ rộng ra của các đường kính của đưòng dẫn khí. Đặc biệt là ỏ các tiểu phế quản. Cơ co trơn của các tiểu phế quản có thể làm tắc hoàn toàn các đưòng dẫn khí và gây nguy hiểm cho tính mạng nếu không được điểu trị kịp thời. Bình thường không khí ra hoặc vào phổi rất dễ dàng chỉ cần có sự chênh lệch áp suất < lem H2O là đủ để không khí di chuyển từ nơi có áp suất cao đến nơi có áp suất thấp. Sức cản của đường hô hấp trên và các đường dẫn khí lốn như khí phế quản chiếm 50% toàn bộ sức cản của đường dẫn khí. Đường dẫn khí trên (miệng, hầu, thanh quản) chiếm 25%, phần còn lại là đường dẫn khí dưới, trong đó sức cản của các đường dẫn khí nhỏ hơn 2mm của các tiểu phế quản, từ thế hệ thứ 8 trở đi chỉ chiếm 10%-20% tổng sức cản của đường dẫn khí.
Sức cản của đường dẫn khí phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
- Thể tích phổi: Khi hít khí vào, phổi giãn nở, các thanh đàn hồi của phổi kéo giãn đường dẫn khí ỉàm cho sức cản giảm xuống. Khi thở ra, thể tích phổi thu nhỏ lại, đường dẫn khí cũng bị thu hẹp lại làm tăng sức cản.
- Sự co cơ trơn tiểu phê quản dưới ảnh hưởng của hệ thần kinh giao cảm, phó giao cảm và các chất trung gian có tác dụng vận mạch (vasoactive intestinal polypeptide -VIP).
- Mức độ phì đại của niêm mạc đường dẫn khí.
- Lượng dịch tiết trong lòng đường dẫn khí.
Phổi - màng phổi, khoang màng phổi và áp khoang màng phổi
Phổi
Phổi nằm trong lồng ngực gồm có phổi phải và phổi trái, đơn vị cấu tạo cuối cùng của phổi là các phế nang.
Lồng ngực là một buồng hoàn toàn kín chứa phổi và tim là hai cơ quan chính ỏ bên trong, xung quanh là khung xương bao bọc, phía trên có các cơ và mô liên kết vùng cổ, phía dưới có cơ hoành ngăn cách vối ổ bụng. Cơ hoành có hai vòm hoành và được cấu tạo bỏi các sợi cơ vân. Thành lồng ngực gồm có xương ức ở phía trưốc, 12 đôi xương sườn, các cơ liên sườn và các mô liên kết có tính đàn hồi, phía sau có cột sống, gồm các đốt xương sông. Lồng ngực có tính đàn hồi và có khả năng thay đổi kích thước nhờ hoạt động của các cơ hô hấp.
Phê nang và màng hô hấp
Phê nang là đơn vị câu tạo cuối cùng của phổi và là đơn vị chức năng thực hiện quá trình trao đổi khí. Phế nang được các mao mạch phổi bao bọc như một mạng lưới, mỗi phê nang như một cái túi nhỏ rất mỏng mảnh, nhận không khí từ nhánh tận cùng của cây phế quản là các ông phế nang. Từ các ông phế nang có các túi phế nang. Ó người phổi có khoảng 300 X 106 phế nang và có diện tích tiếp xúc giữa phê nang và mao mạch phổi là khoảng 70m2 - 120m2 tuỳ theo chu kỳ hô hấp là thở ra hay hít vào. Phế nang được câ'u tạo gồm một lâp biểu mô phế nang có hai loại tế bào, trên bề mặt của biểu mô phế nang có phủ lớp dịch là chất hoạt diện còn được gọi là lớp surfactant. Hai loại tế bào biểu mô phế nang gồm:
- Loại 1: Còn gọi là tế bào phế nang nhỏ hay tế bào phế nang typ I. Tế bào phế nang nhỏ có câ'u tạo phần bào tương trải dài theo thành phế nang hay còn gọi là lớp màng đáy phế nang. Tế bào phê nang nhỏ là tế bào lót nguyên thuỷ của phế nang, nó mẫn cảm vổi mọi đột nhập có hại vào phế nang.
- Loại 2: Còn được gọi là tế bào phế nang lổn hay tế bào phế nang typ II. Tế bào phế nang lân thường đứng thành cụm 2- 3 tế bào phế nang lốn cạnh nhau. Trong bào tương của tế bào phế nang lớn, nghiên cứu dưới kính hiển vi điện tử người ta thấy chúng có thể có hai loại khác nhau. Loại tế bào phế nang lón trong bào tương có nhiều ty lạp thể và loại tế bào phế nang lổn trong bào tương có nhiều thể lysosom. Người ta cho rằng đây là hai giai đoạn phát triển của tế bào phế nang lớn.
Tế bào phế nang lớn có khả năng bài tiết ra chất hoạt diện.
Dưới lớp biểu mô phế nang là lốp màng đáy phế nang gồm có các sợi chun, sợi liên kết và các tổ chức keo tạo thành từ các sợi tạo keo.
Phần tiếp giáp giữa phế nang với phế nang hoặc với mao mạch là khoảng kẽ gồm nhiều sợi liên kết, các sợi đàn hồi.
Nơi tiếp giáp giữa phế nang và mao mạch là nơi xảy ra quá trình trao đổi khí giữa phế nang và mao mạch còn được gọi là màng hô hấp.
Nghiên cứu siêu cấu trúc dưối kính hiển vi điện tử ngưòi ta thấy màng hô hấp gồm có 6 lóp.
Lớp màng đáy mao mạch có cấu tạo giông như lớp màng đáy phế nang và có nhiều chỗ hoà lẫn vào nhau.
Lớp nội mạc mao mạch được cấu tạo bởi các tế bào nội mạc và giống vối các tế bào phế nang nhỏ.
Màng hô hấp tuy được cấu tạo bởi 6 lớp nhưng nó rất mỏng. Cấu tạo của màng hô hâ'p:
Lớp chất hoạt diện (lớp surfactant).
- Lớp biểu mô phế nang.
- Lốp màng đáy phế nang
- Lốp liên kết (khoảng kẽ)
- Lốp màng đáy mao mạch.
- Lốp nội mạc mao mạch.

Bề dày trung bình của màng hô hâ'p chỉ vào khoảng 0,6 micromét, có chỗ chỉ khoảng 0,2 pm. Ở người trưỏng thành tổng diện tích của màng hô hấp từ 50-100m 2 và lượng máu chứa trong hệ mao mạch phổi khoảng 60-140ml. Đường kính mao mạch chỉ khoảng 5pm trong khi đó đường kính hồng cầu khoảng 7pm do đó khi đi qua phải tự kéo dài ra mới đi lọt và màng hồng cầu áp sát vào màng mao mạch, nó tạo điều kiện cho quá trình khuếch tán khí được dễ dàng [7] [36].
Màng phổi và khoang màng phổi
Màng phổi có hai lá là lá thành và lá tạng được tạo thành bởi một lớp mô liên kết xơ mỏng trong đó có những tế bào sợi và đại thực bào, những bó sợi chun chạy dọc theo các hướng khác nhau và được lợp bỏí một lớp trung biểu mô.
Lá thành bao mặt trong của thành ngực và cơ hoành, lá tạng bao bọc mặt ngoài phổi, chúng áp sát nhau và liên tục với nhau ở rốn phổi. Giữa hai lá có một ít dịch mỏng tạo cho chúng dễ trượt lên nhau và cũng khó tách rời nhau. Màng phổi có nhiều mao mạch máu và mao mạch bạch huyết. Lá thành của phổi có một số sợi thần kinh chi phôi có nguồn gốc từ các dây thần kinh hoành.và thần kinh liên sườn. Lá tạng có các nhánh của thần kinh giao cảm và phó giao cảm. Lá thành và lá tạng liên tiếp nhau tạo thành một khoang gọi ỉà khoang màng phổi và là một khoảng ảo vì bình thường giữa lá thành và lá tạng không có một khoảng trống nào mà chúng áp sát vào nhau với một lớp dịch rất mỏng. Trong một số trường hợp bệnh lý làm cho lá tạng và lá thành tách rời nhau, giữa chúng tạo thành khoang thực chứa khí hoặc chứa dịch như trong các trường hợp tràn dịch, tràn khí màng phổi.v.v.
Áp suất âm trong khoang màng phôi
Áp suất trong khoang màng phổi thấp hơn áp suất khí quyển được gọi là áp suất âm trong khoang màng phổi. Chúng ta có thể đo áp suất âm trong khoang màng bằng cách đo trực tiếp hoặc đo gián tiếp.
- Đo trực tiếp bằng cách chọc một kim tiêm qua cơ liên sườn ở thành ngực để mũi kim nằm ở khoang màng phổi, đuôi kim được nôi vối một áp kê, chúng ta sẽ thây áp kế đó chỉ áp suất âm kể cả lúc ngừng thở. Tuy nhiên đo trực tiếp áp suất âm trong khoang màng phổi có thể có những biến chứng nguy hiểm vì thế người ta có thể đo gián tiếp qua thực quản.
- Đo gián tiếp qua thực quản được thực hiện nhờ một ống thông (sonde) cao su có bóng nhỏ được đưa vào thực quản, một đầu ống thông (sonde) được nôì với áp kế. Biến đổi áp suất âm của bóng cao su ỏ trong thực quản được xem như tương đương vối thay đổi áp suất âm trong khoang màng phổi theo các động tác hô hấp.
Cơ chê' tạo thành áp suất ăm trong khoang màng phổi: Tổ chức phổi có tính đàn hồi do đó theo tính chất vật lý của các sợi đàn hồi thì nếu càng bị kéo căng ra thì lực đàn hồi co lại càng lốn. Phổi ở thì hít vào bị căng giãn ra do đó nó có xu hưống co về phía rốn phổi. Phổi càng giãn nở to thì lực đàn hồi co về phía rốh phổi càng lớn. Trong khi đó, lồng ngực được coi là một bình kín và cứng tuy có khả năng đàn hồi nhưng nhỏ hơn rất nhiều so với tổ chức phổi. Ớ thì hít vào lồng ngực tăng kích thước, lá thành bám sát vào thành ngực còn lá tạng áp sát vào phổi, do tính chất đàn hồi của phổi lá tạng có xu hướng tách ra khỏi lá thành làm cho thê tích trong khoảng ảo của màng phổi tăng lên. Theo định luật vật lý, trong một bình kín nếu nhiệt độ không thay đổi, áp suất trong bình sẽ giảm khi thể tích của bình tăng lên. Chính vì lý do trên nên khi thê tích của khoang ảo màng phổi có xu hướng tăng lên thì áp suâ't trong khoang ảo sẽ giảm xuốhg làm cho áp suất trong khoang màng phổi đã âm lại càng âm hơn. Khi phổi càng nồ ra ồ thì hít vào thì lực đàn hồi co lại của phổi càng lớn và làm cho áp suất càng âm. Khi phổi càng thu nhỏ lại ở thì thỏ ra thì áp suất sẽ bớt âm hơn do lực đàn hồi co lại về phía rốn phổi giảm xuống, lá tạng giảm bớt lực co tách khỏi lá thành và thể tích của khoang ảo dần trở về trạng thái ban đầu.
Để giải thích cơ chế áp suất âm trong khoang màng phổi người ta còn dựa vào sự tăng trưởng kích thưốc của lồng ngực, ở đứa trẻ sau khi sinh kích thước của lồng ngực tăng thường là nhanh hơn phổi vì thế khiến cho thành ngực và đi liền vối nó là lá thành có xu thế tách khỏi mặt ngoài của phổi tức là tách khỏi lá tạng vì lá tạng áp sát mặt ngoài của phổi. Mặt khác áp suất khí quyển thông qua đường dẫn khí tác động vào các phế nang luôn làm phổi nỏ thêm và bám sát theo thành ngực. Do tính chất đàn hồi của tổ chức phổi nên phổi lại có xu hướng co nhỏ lại không theo độ nở của thành ngực. Sự co kéo ngược chiều nhau (lồng ngực nở to ra, tổ chức phổi co nhỏ lại) đã tạo ra áp suất âm trong khoang màng phổi. Một yếu tố" nữa góp phần tạo áp suất âm trong khoang màng phổi là dịch màng phổi được bơm liên tục vào các mạch bạch huyết.
Có thể nói tính chất đàn hồi của phổi và lồng ngực là yếu tô chính tạo nên áp suất âm trong khoang màng phổi.
- Ở cuôì thì thở ra bình thường áp suất âm trong khoang màng phổi khoảng -4mmHg.
- Ở cuôì thì hít vào bình thường áp suất âm trong khoang màng phổi khoảng -7mmHg.
- Khi hít vào hết sức áp suất âm trong khoang màng phổi có thể xuống tới -30mmHg.
- Khi thở ra hết sức áp suất âm trong khoang màng phổi còn khoảng -1mmHg.
Ý nghĩa của áp suất âm trong khoang màng phổi: Áp suất âm trong khoang màng phổi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sinh lý học hô hấp và tuần hoàn.
- Nhờ áp suất âm trong khoang màng phổi, làm cho phổi dễ dàng nở ra bám sát vối thành ngực làm cho lá tạng luôn dính sát vào lá thành, làm cho phổi đí theo các cử động của lồng ngực một cách dễ dàng. Trong một số trường hợp bệnh lý hoặc chấn thương nếu có lỗ thủng trên thành ngực, làm thủng màng phổi, khí trời tràn vào khoang màng phổi làm mat áp suất âm trong khoang màng phổi, phổi sẽ bị co nhỏ lại, nêu không cấp cứu kịp thời bệnh nhân sẽ bị ngạt. Một trong những nguyên tắc câp cứu những trường hdp chấn thương thủng màng phổi là phải bịt kín vết thương và hút khí tạo lại áp suất âm cho khoang màng phổi.
- Áp suất âm trong khoang màng phổi làm cho lồng ngực có áp suất thấp hơn các vùng khác nên máu về tim dễ dàng, và máu lên phổi dễ dàng, làm nhẹ gánh tâm trương. Ở những bệnh nhân hen, khó thở ra khiến bệnh nhân phải gắng sức ở thì thả ra làm cho áp suất trong khoang màng phổi và trong lồng ngực trở nên dương, máu về tim khó khăn và thường thấy các tĩnh mạch cổ phồng lên.
- Áp suất âm trong khoang màng phổi làm cho hiệu suất trao đổi khí đạt được cao nhất vì khi hít vào nhiều nhất là lúc áp suất âm nhất và máu về phổi nhiều nhất tạo nên sự trao đổi khí tốt nhất nhờ sự tương đồng giữa thông khí và tưổi máu phổi.
Tuần hoàn phổi
Tuần hoàn phổi còn được gọi là tiểu tuần hoàn, nó có nhiệm vụ đưa máu tĩnh mạch (nghèo oxy và nhiều C02) theo động mạch phổi lên phổi để trao đổi oxy và C02.
Sau quá trình trao đổi khí vối phê nang, máu tĩnh mạch phổi trở thành máu động mạch (giàu oxy và nghèo C02) theo đường tĩnh mạch phổi về tâm nhĩ trái để xuống tâm thất trái và đi vào động mạch chủ để đến các tổ chức và cung cấp oxy cho tổ chức.
Tuần hoàn phổi là tuần hoàn chức năng, không phải là tuần hoàn nuôi dưỡng. Nuôi dưỡng phổi là động mạch phế quản xuất phát từ động mạch chủ.
Động mạch phổi có đặc điểm cấu trúc là rất ngắn so với động mạch chủ. Nó chỉ có một đoạn dài khoảng 4cm vượt qua phần đỉnh của tâm thất phải sau đó chia thành 2 nhánh là động mạch phổi phải và động mạch phổi trái để vào hai phổi tương ứng.
Thành của động mạch phổi mỏng, chỉ dày gấp hai lần thành của tĩnh mạch chủ và chỉ bằng 1/3 thành của động mạch chủ.
Tĩnh mạch phổi có các đặc tính vể giải phẫu và chức năng giống các tĩnh mạch của vòng dại tuần hoàn nhưng nó có đặc điểm cũng ngắn giống như độ dài của động mạch phổi và các nhánh động mạch phổi. Mao mạch phổi có diện tích rất rộng, tổng diện tích khoảng 150m 2. Đặc điểm này giúp cho việc trao đổi khí giữa mao mạch và phê nang rất thuận tiện. Lượng máu chứa trong mao mạch phổi khoảng từ 60- 140ml. Đường kính mao mạch chỉ khoảng 5pm, nhỏ hơn đường kính hồng cầu, do đó khi đi qua mao mạch phôi hồng cầu phải tự kéo dài mới đi lọt. Vì vậy màng hồng cầu áp sát vào màng mao mạch phế nang, làm cho việc khuếch tán khí rất dễ dàng.
Mặt khác, áp suất máu ở mao mạch phổi chỉ vào khoảng 8- lOmmHg, áp suất dịch kẽ ở mô phổi là-8mmHg, mao mạch phổi có tính thấm đõì vói protein nhiều hơn các mao mạch khác do đó nồng độ protein qua mạch bạch huyết cũng nhiều hơn ở nơi khác.
Mô kẽ giữa các phê nang hẹp, có ít khoảng trao đổi giữa mao mạch và phê nang. Những đặc điểm nêu trên dẫn đến một hệ quả là nước được hút từ phê nang vào mô kẽ và vào mao mạch do áp suất keo ở trong máu mao mạch luôn giữ từ 25-28mmHg. Kết quả là phế nang luôn được giữ khô. Áp suất âm ở mô kẽ cũng có tác dụng hút một lượng dịch từ phế nang vào mô kẽ để vào mao mạch giữ cho phế nang không bị ứ dịch. Những yêu tô' làm tăng áp suất trong mao mạch phổi lỏn hơn áp suất keo hoặc làm tăng áp suất ở khoảng kẽ cũng sẽ làm thoát dịch vào phế nang gây nên hiện tượng ứ nưốc và tạo ra nguy cơ phù phổi. Động mạch phế quản xuất phát từ động mạch chủ có nhiệm vụ đưa máu giàu oxy đến nuôi dưỡng phổi. Nó cung cấp máu nuôi dưỡng cho các mô liên kết của phổi, vách phế nang, các phế quản và các tiểu phế quản. Máu từ động mạch phế quản sau khi qua các mô của phổi thì phần lớn là đổ vào các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái, chỉ có một lượng ít là đổ vào nhĩ phải.
Phổi còn có các mạch bạch huyết trải suốt ở các mô đệm của phổi (mô liên kết, vách phế nang, khoảng kẽ giữa các phế nang, mao mạch) và quanh phế quản, các mạch bạch huyết chạy tói rốn phổi rồi đổ vào ông bạch huyết bên phải và cuôì cùng đổ vào hội lưu Pirỗgốp. Hệ bạch huyết của phổi cũng có tác dụng giúp cho sự vận chuyển nhanh các chất từ phế nang và các protein từ các mô của phổi, tránh được hiện tượng phù phổi. Hệ bạch huyết cũng là một yếu tô' góp phần tạo áp suất âm của phổi và khoang màng phổi [21] [37].
