Trang chủ

Thư viện Seadrop

Ngoại khoa

Posted in Ngoại khoa by

ĐỊNH NGHĨA

Ngoại khoa

Ngoại khoa là một chuyên ngành chữa bệnh. Phương pháp chữa bệnh của ngoại khoa là dùng các thủ thuật hay các phẫu thuật để sửa chữa thương tổn, khuyết tật của các bộ phận, các tạng trong cơ thể. Để thực hiện thủ thuật, phẫu thuật, người thẩy thuốc phải bộc lộ và phơi bày các tạng ra ngoài để mắt nhìn thấy, để tay sờ mó, đụng chạm. Vì phải để lộ các tạng ra ngoài nên gọi là Ngoại khoa.

Để xử lý các thương tổn người ta thường dùng các dụng cụ như dao, kéo, kểm, cặp, cưa, búa, đục, kim chi... mà cắt, cưa, cầm máu, phẫu tích, bộc lộ, khâu nối... Cũng có khi chỉ dùng tay để xử lý thương tổn như nắn gẫy xương, sai khớp...

Ngoại khoa khác nội khoa. Nội khoa chữa bệnh bằng thuốc men. Thuốc men được đưa vào cơ thể bằng uống, chích dưới da, chích tĩnh mạch, không cần bộc lộ các tạng thương tổn ra ngoài nên gọi là nội khoa.

Liên quan giữa ngoại khoa và nội khoa

Có những bệnh hoàn toàn chữa bằng nội khoa như viêm phổi, cao huyết áp, tiểu đường, sốt rét...

Có những bệnh hoàn toàn chữa bằng ngoại khoa như viêm ruột thừa, tắc ruột, thoát vị bẹn, ung thư dạ dày, ung thư đại tràng...

Có những bệnh chữa bằng nội khoa nhưng khi có biến chứng thì phải chữa bằng ngoại khoa, như bệnh loét dạ dày tá tràng khi có biến chứng thủng, biến chứng chảy máu.

Có những bệnh chữa bằng nội khoa nhưng khi thất bại thì phải dùng phẫu thuật như áp-xe gan, loét dą dày-tá tràng, viêm xương...

Ngoài ra cùng một bệnh, cùng một tình huống nhưng theo thời gian phương pháp điểu trị thay đổi do có những hiểu biết mới, có những phương tiện mới. Hẹp động mạch vành tim, trước kia mổ bắc cầu qua chỗ hẹp thì nay đặt stent trong lòng mạch... Sỏi đường mật, trước kia mổ bụng lấy sỏi thì nay có thể lấy sỏi qua da. Sỏi niệu, trước kia mổ lấy sỏi thì nay có thể lấy sỏi qua đường nội soi niệu quản.

Phẫu thuật viên

Ngoại khoa không chỉ có nghĩa đơn thuẩn là mổ xẻ. Phẫu thuật viên, trước hết phải là người thầy thuốc nội khoa.

Cũng như thầy thuốc nội khoa, phẫu thuật viên phải biết kỹ càng về bệnh tật, từ những lý luận cơ bản về bệnh lý đến cách khai thác tiển sử, bệnh sử, thăm khám lâm sàng, biết chỉ định sử dụng và giá trị của các phương tiện cận lâm sàng, biết chẩn đoán bệnh, biết ìm nguyên nhân sinh bệnh, biết hướng xử trí và biết thực hiện các phẫu thuật...

Ngoại tổng quát và Ngoại chuyên khoa

Lúc mới hình thành, ngoại khoa chữa các bệnh ngoại khoa thông thường: Ngoại khoa tổng quát.

Để đi sâu hơn, ngoại khoa tổng quát được chia ra các Ngoại chuyên khoa: Thần kinh sọ não, Lồỗng ngực, Tiêu hóa, Niệu khoa, Chấn thương chỉnh hình...

Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, có nhiểu máy móc, phương tiện, Ngoại chuyên khoa được chia ra các Chuyên khoa sâu. Chuyên khoa tiêu hóa được chia ra Dạ dày-ruột, Gan mật, Hậu môn-trực tràng. Chuyên khoa chấn thương chỉnh hình được chia ra Chi trên, Chi dưới, Cột sống...

Ngoại khoa cấp cứu

Các bệnh tật thuộc lãnh vực chữa trị của ngoại khoa tùy tình huống được chia ra:

  1. Không cấp cứu: Chữa bệnh theo lịch hẹn như bướu cổ, nang gan, dãn tĩnh mạch chân, thoát vị bẹn, sỏi niệu, phì đại tuyến tiển liệt...
  2. Cấp cứu trì hoãn: Có thời gian chuẩn bị bệnh nhân vài ba ngày, để nâng cao thể trạng, để làm dịu bớt tình trạng nhiễm trùng tại chỗ, để bệnh nhân được mổ trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn, như sỏi ống mật chủ, hẹp môn vị, ung thư các loại...
  3. Cấp cứu: Có 1-2 giờ để chuẩn bị, như viêm ruột thừa, thủng dạ dày, tắc ruột, thoát vị bẹn nghẹt, chấn thương và vết thương bụng, máu tụ trong sọ, tràn máu màng phổi... 4 Tối khẩn: Mổ ngay, không chờ đợi như khi máu đang chảy dữ dội vì vết thương tim, vết thương mạch máu lớn... Nếu không xử lý kịp thời, bệnh nhân sẽ tử vong.

Ngoại khoa thời bình và ngoại khoa thời chiến

Ngoại khoa thời bình là ngoại khoa chữa trị các bệnh tật xảy ra trong đời sống hàng ngày. Bệnh nhân đến bệnh viện lẻ tẻ từng người hay dăm ba người.

Ngoại khoa thời chiến là ngoại khoa chữa trị các thương tích do bom mìn, súng đạn, chất nổ, trái phá... Trong ngoại khoa thời chiến, nạn nhân thường đến hàng chục, hàng trăm người cùng lúc. Nạn nhân thường trong tũnh trạng nặng hay rất nặng, huyếp áp hạ thấp, đe dọa sốc hay đã sốc thực sự. Trạm cứu thương hay trạm xá thì lại vô cùng thiếu thốn, không có phương tiện cần thiết cho việc cấp cứu hàng loạt. Một khó khăn rất lớn nữa là vấn để chọn lọc. Chọn lọc để biết ai phải xử lý tại chỗ, ai chuyển về tuyến sau, mổ ai trước, ai sau... Người phụ trách công việc chọn lọc, phân loại bệnh nhân phải là người nhiều kinh nghiệm.

Nhiều tai nạn xảy ra trong thời bình không phải do súng đạn, bom mìn nhưng tính chất lại giống thời chiến như tai nạn máy bay rơi, xe lửa trật bánh, ô tô chở khách rớt vực, đám cháy lớn... cũng thuộc lĩnh vực ngoại khoa thời chiến.

LỊCH SỬ NGOẠI KHOА

Trong suốt hàng triệu năm của thời nguyên thủy, con người cảm thấy bất lực trước thiên nhiên tàn bạo và bệnh tật hiểm nghèo. Họ tin vào Đấng tối cao, vào thẩn thánh, vào ma quỷ và cho rằng bệnh tật là do thần linh, ma quái nhập vào cơ thể. Muốn khỏi bệnh xua đuổi chúng bằng tế lễ, gõ chiêng, đánh trống, tế thẩn...

Y học thời cổ đại

Lịch sử Y học ghi lại, vào năm 2250 trước công nguyên người Ai Cập thực hiện những phẫu thuật đầu tiên như mổ bư ở cổ, rạch ung nhọt, nắn xương gẫy. Người Ấn Độ mổ mắt bị kéo mây, mỗ thẩm mỹ, mổ bướu. Người Péru biết cưa chân tay, khoan sọ.

Hippocrates (Hy Lạp, 460-377 TCN) được coi như cha đẻ của nền Y học phương tây. Ông được sinh ra, lớn lên, giáo dục ở trong nhà thờ của Hy Lạp, đi chữa bệnh khắp nơi. Ông cho rằng bệnh tật là do thay đổi vật chất trong cơ thể chứ không phải là ý muốn của Thượng đế, thần linh ma quái. Quan điểm này khác với luận thuyết tâm theo kiểu Y học tăng lữ thời đó. Ông đã mô tả nhiều bệnh khoa, nhi khoa, các khối u lành u ác. Quan điểm duy vật về bệnh tật của ông đã giải phóng người thầy thuốc ra khỏi cách suy nghĩ mang tính chất tôn giáo thần bí của nhiều thế kỷ trước. Ông có nhiều đóng góp trong điều trị gẫy xương, trật khớp. này trật khớp vai vẫn được nắn theo phương pháp Hippocrates.

Galen (sinh ra tại Hy Lạp, 129-199 SCN) đi tới rất nhiều nơi để bệnh và học hỏi. Ông nghiên cứu nhiều về cơ thể học súc vật. Ông viết nhiểu sách Y học. Ông là tác giả của trên 300 công nghiên cứu Y học về giải phẫu, sinh lý, bệnh học, dược học...Các công trình của ông xuất phát từ những nghiên cứu mang tính vật, xác định mối liên quan giữa cấu trúc giải phẫu và hoạt động chức năng. Nhưng ông chịu nhiều ảnh hưởng của triết học duy tâm nên có nhiểu cách giải thích sai lệch. Y học tăng lữ thời cổ đại mang màu sắc thẩn bí đã sử dụng một cách phiến diện những thành tích nghiên cứu của Galen và đã gạt bỏ những kết quả của ông trên nhiểu lãnh vực. Vì uy tín của ông rất lớn, ảnh hưởng của ông tồn tại trong thời gian rất dài. Chính vì vậy mà Y học thời cổ đại đã bị kìm hãm hàng chục thế kỷ.

Y học thời trung cổ

Thời trung cổ kéo dài hàng ngàn năm. Trong thời kỳ này, nhà thờ thống trị xã hội “Thời đại của lòng tin”. Nhà thờ đã sử dụng những quan điểm của Galen và đàn áp những ý kiến ngược lại. Khỏi bệnh là do Thượng đế. Mỗi bệnh do một thánh chữa trị. Mổ xẻ không cần thiết. Y học bị thoái triển nghiêm trọng.

Cũng trong thời kỳ này, ra đời các trường thuốc đào tạo thầy thuốc, đáng chú ý nhất là trường Salerno & Italia. Khác với các trường khác, trường Salerno không phụ thuộc vào nhà thờ. Trường này phát triển mạnh ở thế kỷ 12, là cái nôi đào tạo các thầy thuốc có danh tiếng và đã phát huy mạnh mẽ ảnh hưởng sang các nước khác.

Ở đại học Y khoa Paris, năm 1163, theo lệnh của hội đồng nhà thờ Tours, ngoại khoa bị cấm giảng dạy. Lúc này có hai loại phẫu thuật viên. Phẫu thuật viên áo dài xuất thân từ trường Saint Côme ở Italia. Phẫu thuật viên áo ngắn gồm những người thợ cạo, làm theo kinh nghiệm. Mổ xẻ chỉ là công việc thủ công, được giao cho thợ cắt tóc, thợ cạo, đao phủ.

Ở Anh, những người làm công việc mổ xẻ bị các thầy thuốc nội khoa coi thường, không được coi là thẩy thuốс.

Y học thời phục hưng

Ở thời kỳ này, cùng với những thay đổi trong xã hội, ngành ngoại khoa có những thay đổi theo chiều hướng tiến bộ. Y học được phép mổ xác. Nhiều họa sĩ chuyển vẽ gôtic sang vẽ giải phẫu học như nhà danh họa hàng đầu người Italia là Leonard de Vinci, 1452-1519.

Giải phẫu học, Andreas Vesalius (1514-1564, Pháp) nhận học vị Tiến sĩ Y khoa, trở thành giáo sư ngoại khoa năm 23 tuổi. 5 năm liển sau đó ông mổ xác để nghiên cứu. Năm 1543, lúc 29 tuổi ông viết quyển giải phẫu học De humani corporis fabrica, gồm 7 tập, được coi là có giá trị nhất trong các sách Y học. Velasius được coi là cha để của ngành giải phẫu học.

Phẫu thuật, ở Pháp, Ambroise Paré (1509-1590) được coi là phẫu thuật viên vĩ đại nhất của thời kỳ phục hưng. Ông xuất thân từ nghề thợ cạo, sau đó là ngự Y cho 5 đời vua. Ông có rất nhiều kinh nghiệm trong phẫu thuật, đặc biệt là trong xử trí vết thương do hỏa khí. Ông là người để xướng phương pháp thắt mạch máu để cẩm máu mà trước đó để cẩm máu người ta phải đốt nóng. Ở Đức, Von Hildon (1560-1634) xuất thân từ nghể thủ công, ông đứng đầu ngành ngoại khoa nước Đức, được coi là phẫu thuật viên giỏi nhất của ngoại khoa kinh nghiệm.

Y học thời cận đại

Lịch sử ngoại khoa đã lâu đời nhưng mới thực sự phát triển từ cuối thế kỷ 19 đến nay. Phát triển được là do những khám phá của các ngành khoa học, trong đó có những phát minh có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến ngành ngoại khoa.

PHÁT MINH Y HỌC LIÊN QUAN ĐẾN NGOẠI KHOA

Vô cảm

Để có thể tiến hành phẫu thuật ở bất cứ tạng nào cũng phải vô cảm thật tốt. Vô cảm tốt để bệnh nhân không lo lắng, không sợ hãi, mất cảm giác đau và nằm im. Nằm im không cử động rất cần thiết để thực hiện các động tác kỹ thuật chính xác.

Trong thời kỳ đầu của phẫu thuật, vô cảm bằng cách đánh mạnh vào cơ thể người bệnh gây choáng váng, bằng bóp cổ, bằng uống nhiều rượu làm say... Với phương pháp vô cảm này, chỉ dám làm các phẫu thuật nhỏ và phải làm thật nhanh.

Thuốc mê Ête đã được biết từ thế kỷ 16, nhưng mãi đến năm 1842 mới được Grawford Long nghiên cứu về tính chất. Ngày 16 tháng 10 năm 1846 một thẩy thuốc nha khoa ở Boston là William T.G. Morton (1819-1868) trình diễn gây mê bằng ête thành công ở bệnh viện Massachusetts và được coi như một dấu mốc của lịch sử phẫu thuật. Thuốc mê Chloroforme được Simpson sử dụng đầu tiên năm 1847.

Có nhiều loại vô cảm. Gây tê có tê tại chỗ, tê vùng, tê trong xương. Gây mê nh mạch, mê mặt nạ, mê nội khí quản, mê hạ huyết áp, mê hạ thể nhiệt.

Với gây tê, không làm được những phẫu thuật, nhưng hậu phẫu nhẹ nhàng. Với gây mê toàn thân, bệnh nhân mất hoàn toàn tri giác, hết lo lắng sợ sệt, mất hoàn toàn cảm giác đau, có thể tiến hành các phẫu thuật lớn, kéo dài nhiều giờ, có thể thực hiện phẫu thuật ở các bộ phận mà trước kia không dám đụng tới.

Hồi sức

Với những bệnh nhân nặng và những phẫu thuật lớn, công tác Hổi sức rất quan trọng. Những đả kích của phẫu thuật vào cơ thể người bệnh, cũng như tình trạng mất máu do mổ xẻ gây nên làm nặng thêm tình trạng bệnh nhân. Alfred Blalock (1889-1964), một phẫu thuật viên, có nhiều đóng góp cho những hiểu biết về bệnh sinh của sốc.

Với mọi bệnh nhân mổ, có thể có các rối loạn về chuyển hóa. Francis D. More, một phẫu thuật viên, có nhiều khảo cứu về chuyển hóa ở bệnh nhân mớ.

Jonathan Rhoads, một giáo sư ngoại khoa, có công trình nổi tiếng về nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch.

Truyền máu

James Blundell, bác sĩ sån khoa người Anh, vào tháng 10 năm 1818 lần đầu tiên truyền máu cho một sản phụ bị băng huyết. Gần một thế kỷ sau, năm 1900 Karl Landsteiner (1868-1943), nhà bệnh học và miễn dịch học người Áo phát hiện các nhóm máu người, giải thưởng Nobel năm 1930. Từ lúc ấy, truyển máu mới thực sự bắt đầu. Khi truyển máu, bắt buộc phải dùng loại máu thích hợp. Hệ máu thường dùng là hệ ABО.

Nhiều bệnh nhân đến bệnh viện trong tình trạng mất máu trầm trọng vì mất máu dữ dội do bệnh lý hay do chấn thương. Với tình trạng mất máu nặng, nếu bệnh nhân không được truyền máu nâng huyết áp thì không thể tiến hành phẫu thuật được.

Bất cứ cuộc mổ xẻ nào cũng làm chảy máu. Số lượng máu mất nhiễu ít phụ thuộc vào loại phẫu thuật. Có khi cần truyền đến 10 lít máu. Các phẫu thuật lớn chỉ có thể tiến hành khi có sẵn máu để bồi phụ kịp thời lượng máu mất do cuộc mổ gây nên.

Vô trùng

Quan điểm mủ đáng tán dương tồn tại trong nhiểu thế kỷ, nay không còn nữa. Mủ không cần thiết cho sự lành vết thương. Ngược lại, nó cản trở rất nhiều cho sự lành vết thương.

Louis Pasteur (Pháp, 1825-1895) phát hiện vi trùng. Vi trùng là nguyên nhân của mọi nhiễm trùng. Từ đó người ta đã để ra các phương pháp chữa trị và phòng ngừa các bệnh nhiễm trùng.

Joseph Lister (Anh, 1827-1912) là người đầu tiên sử dụng phương pháp sát trùng trong phẫu thuật. Nhờ vô trùng mà ngoại khoa đã làm được những phẫu thuật lớn. Vô trùng bắt buộc đối với mọi động tác trong ngoại khoa.

Kháng sinh

Alexander Fleming (Scotland, 1881-1955), nhà vi trùng học, đã tìm ra Penicilline, giải thưởng Nobel năm 1945. Từ ngày đó đến nay, hàng trăm loại kháng sinh, với nhiều họ khác nhau ra đời. Kháng sinh đã giúp rất nhiều cho Y khoa, đặc biệt là cho ngoại khoa.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1945-1954 của nhân dân ta, ở chiến khu Việt Bắc, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn thiếu thốn, giáo sư Đặng Văn Ngữ đã chế tạo thành công nước Penicilline, Streptomycine từ bắp. Sản phẩm này đã góp phẩn chữa trị nhiều thương bệnh binh.

Trong ngoại khoa, kháng sinh được dùng trước mổ, trong mổ, sau mổ cho những bệnh nhân bị nhiễm trùng, đặc biệt là nhiễm trùng nặng.

Khi mổ, các cơ quan được phơi bày ra ngoài, tiếp xúc với không khí. Không khí phòng mổ thường không sạch nên dễ bị nhiễm trùng. Kháng sinh được dùng trong khi mổ với mục đích ngừa nhiếm trùng tại phòng mổ. Phòng săn sóc sau mổ cũng có thể làm nhiễm trùng vết mổ, nhiễm trùng phổi. Nhiễm trùng là một trong những nguyên nhân của thất bại, tử vong.

Trong nửa thế kỷ qua, thực tế đã chứng minh là kháng sinh giúp ích rất nhiều cho sự phát triển của ngoại khoa. Nhờ nó mà người ta có thể thực hiện các phẫu thuật lớn.

Nhưng cũng vì giúp ích nhiều cho chữa trị và phòng ngừa nhiễm trùng nên kháng sinh bị lạm dụng. Hiện nay kháng sinh được dùng bừa bãi, dùng khi cần thiết và cả khi không cẩn thiết. Hậu quả của việc sử dụng bừa bãi kháng sinh là hiện tượng kháng kháng sinh.

NHỮNG TIẾN BỘ MỚI

Trong thời gian vài chục năm nay, khoa học kỹ thuật có rất nhiều những phát minh, phát kiến, nhất là về mặt điện tử. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật này đang hàng ngày làm thay đổi bộ mặt của y khoa trong đó có ngoại khoa.

Tuần hoàn ngoài cơ thể

Phẫu thuật sửa chữa các thương tổn của tim được bắt đầu vào những năm 1940. Lúc đầu là mở tim kín. Mổ tim kín là trong lúc mổ ở tim, quả tim vẫn đập và vẫn cung cấp máu nuôi cơ thể. Như vậy chỉ có thể làm những phẫu thuật không lớn và thời giản mổ không dài.

Mươi năm sau, nhờ máy tim phổi nhân tạo, tim được tách ra khỏi hệ tuần hoàn, ngưng hoạt động, buồng tim trống rỗng, cơ thể được cấp máu bởi máy tim phổi nhân tạo. Nhờ vậy, người ta có thể tiến hành các phẫu thuật lớn và kéo dài như sửa chữa các tật bẩm sinh, các dị dạng của mạch máu lớn gần tim, thay van tim, ghép tim... John H. Gibbon (1903-1973) đã có nhiều đóng góp trong sự phát triển của tuẩn hoàn ngoài cơ thể.

Vi phẫu thuật

Với mắt thường và với kim chỉ thường dùng, người ta chỉ có thể làm những phẫu thuật thông thường. Nhờ kính hiển vi phẫu thuật và các dụng cụ tỉnh vi khác, các nhà mổ xẻ đã có thể tiến hành các phẫu thuật trên các cấu trúc thật nhỏ. Jacobson, năm 1960 khai sinh ra ngành vi phẫu thuật.

Trong mấy chục năm qua ngành vi phẫu thuật đã phát triển rất nhanh. Hiện nay người ta có thể khâu nối các mạch máu có đường kính nhỏ tới 0,5mm, nối các bó sợi thẩn kinh trong một dây thần kinh... Nhờ đó, đã thực hiện thành công rất nhiểu phẫu thuật nối bàn tay, ngón tay, bàn chân bị đứt lla, chuyển ghép da cơ xương tự do, làm các phẫu thuật tạo hình, phẫu thuật ghép tạng...

Thay tạng

Các bộ phận trong cơ thể bị hư hại không thể sửa chữa được, người ta tìm cách thay thế chúng: Chân tay giả, thủy tinh thể, khớp, van tim...

Một số các dụng cụ thay thế được làm bằng kim loại. Hiện nay, người ta đang nghiên cứu thay các dụng cụ kim loại bằng tổ hợp carbon. Tổ hợp carbon đang được dùng làm nẹp kết hợp xương, đỉnh nội tủy, khớp nhân tạo, m nh xương sọ, van tim...

Ghép tạng

Với các tạng không thể thiếu trong sự duy trì cuộc sống, khi bị thương tổn người ta thay thế chúng bằng các tạng. Các phẫu thuật ghép hiện nay đang được thực hiện là ghép giác mạc, ghép thận, ghép gan, ghép tụy, ghép tủy, ghép tim, ghép phổi... Có ba loại ghép: Ghép tự thân, ghép đồng loại, ghép khác loại.

Ba vấn đề lớn trong ghép là: Kỹ thuật mổ xẻ, nguồn tạng để ghép và thải ghép. Hiện nay, ở nước ta, ngoài ghép giác mạc, chúng ta đang làm nhiểu ghép tủy xương, ghép thận và đang trong thời kỳ bắt đầu ghép gan.

Tán sỏi ngoài cơ thể

Trước kia đối với sỏi niệu và sỏi mật, nếu phải điều trị thì phương cách điều trị duy nhất là mổ lấy sỏi hoặc gắp sỏi qua đường tự nhiên. Ngày nay người ta có thể tán sỏi bằng các máy xung động. Những mảnh vụn của sỏi được thải ra ngoài theo dòng chảy tự nhiên.

Can thiệp nội soi

Với một số thương tổn của những cơ quan, bộ phận có đường tự nhiên đi vào, người ta dùng Nội soi để đi tới các cơ quan, các bộ phận đó. Với những tính năng của các ống nội soi mềm hiện nay, người ta đã với tới nhiều cơ quan, bộ phận trong cơ thể để can thiệp. Ví dụ, có thể cầm máu dạ dày tá tràng, cắt pôlíp dạ dày bằng nội soi đường tiêu hóa trên, cắt pôlíp trực tràng, đại tràng bằng nội soi đường tiêu hóa dưới. Những sỏi ống mật chủ không quá lớn, không quá nhiều, có thể lấy sỏi bằng đường nội soi dạ dày-tá tràng-ống mật. Với sỏi đường mật trọng gan có thể lấy qua da sau khi tán nhỏ sỏi bằng máy tán sỏi thủy điện lực. Qua đường mạch máu có thể nong van tim hẹp, nong và đặt nòng động mạch vành hẹp... Nội soi can thiệp càng ngày càng được sử dụng nhiễu. Trong nhiều loại bệnh, can thiệp nội soi đang thay thế phẫu thuật.

Phẫu thuật nội soi

Mọi phẫu thuật dù nhỏ đến đâu cũng có thể mang lại cho bệnh nhân những rắc rối, những phiển muộn do vết mổ quá dài ở bụng, ở ngực, ở chân tay. Trong một thời gian dài quan điểm "Phẫu thuật viên lớn, Đường rạch dài" được tôn trọng vì đường rạch càng dài thao tác càng thuận lợi.

Vài chục năm nay có nhiều những phát minh về quang học, về điện tử và những cải tiến của các máy nội soi. Năm 1986 ra đời loại mini camera có gắn mạch vi điện tử, người ta sử dụng nó trong phẫu thuật. Phẫu thuật nội soi, còn được gọi là "Phẫu thuật xâm phạm tối thiểu” ra đời. Phẫu thuật nội soi đi vào ổ bụng, vào lồng ngực, vào khoang khớp... không phải bằng một đường rạch dài 10-15-20 cm mà vào bằng 3-4 15 0,5-1 cm.

Năm 1987 Philippe Mouret (Pháp) lần đầu tiên thực hiện phẫu thuật cắt túi mật nội soi. Dăm năm sau ở Mỹ rồi ở Pháp có tới 80% cắt túi mật được thực hiện bằng phẫu thuật nội soi. Trong năm 2006, một vài bệnh viện Việt Nam, 100% cắt túi mật do sỏi được thực hiện bằng phẫu thuật nội soi. Nhiều loại phẫu thuật, mổ nội soi đang dần dẫn thay thế mổ mở kinh điển.

Sở dĩ phẫu thuật nội soi được ưa chuộng và được sử dụng mỗi khi có thể là vì nó ít xâm phạm tới cơ thể người bệnh. Những ưu điểm chính của phẫu thuật nội soi:

  • Sau mổ ít đau,
  • Vận động sớm, tránh nhiều biến chứng,
  • Thời gian nằm bệnh viện ngắn, chi phí thấp,
  • Trở lại sinh hoạt, lao động sớm,
  • Sẹo mổ nhỏ, đẹp, ít biến chứng.

Phẫu thuật bằng Robot

Phẫu thuật bằng Robot đã được sử dụng nhiểu, nhiều nhất là Mỹ.

Phẫu thuật bằng Robot có những lợi ích sau:

  • Nhìn trường mổ với không gian ba chiều,
  • Cánh tay Robot nhỏ, có thể thao tác ở vùng sâu, chật hẹp,
  • Cổ tay Robot có thể xoay 540 độ,
  • Không có độ rung nên động tác chính xác,
  • Có thể mổ từ xa. PTV ở hậu phương, BN ở chiến trường.

MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN CHẨN ĐOÁN THÔNG DỤNG

X quang

Tia X được Roentgen (Đức, 1845-1923) phát hiện năm 1895, giải thưởng Nobel 1901. Tia Roentgen được dùng trong Y học từ những năm 1920. Phương pháp chiếu chụp X quang thông thường và X quang với thuốc cản quang giúp ích rất nhiều cho chẩn đoán nhiều bệnh thuộc các chuyên khoa sọ não, lồng ngực tim mạch, tiêu hóa, gan mật, hệ niệu, xương khớp, cột sống...

Trong đa số các trường hợp X quang cho chẩn đoán chính xác. Từ những năm 1920 đến những năm 1970, X quang ngự trị trong chẩn đoán.

Xạ hình

Sau khi đưa các chất phóng xạ như Technetium 99m, Iode 131 vào cơ thể. Tùy theo từng chất, chúng sẽ tập trung vào những tạng khác nhau. Nếu có thương tổn, chúng sẽ tạo nên những hình ảnh bất thường trên phim. Thường dùng trong chẩn đoán các bệnh của tuyến giáp, tuyến vú, tim, gan, thận, ung thư di căn xương...

Ngoài tác dụng chẩn đoán, các chất phóng xạ còn cho phép thăm dỡ chức năng và điều trị.

Siêu âm

Siêu âm với những bước sóng rất ngắn khi đi qua các vật thể khác nhau để lại trên màn hình những độ phản âm khác nhau. Căn cứ vào những độ phản âm, người ta nhận định bản chất của thương tổn, Lúc đầu là siêu âm đen trắng, rồi siêu âm màu, siêu âm Doppler quan sát sự di chuyển của dòng máu, siêu âm kết hợp với nội soi.

Siêu âm rất tốt trong chẩn đoán sỏi mật, sỏi niệu, các khối u ở bụng. Là phương tiện chẩn đoán chính trong các bệnh gan mật, tuyến tiền liệt, tuyến giáp, tuyến vú...

Là phương tiện vô hại, không gây nguy hiểm, không gây đau đớn, nhanh chóng, rẻ tiền nên Siêu âm đã có mặt ở mọi cơ sở Y tế.

Nội soi

Ý muốn quan sát được lòng các ống, các khoang trong cơ thể đã bắt đầu từ thời Hippocrates. Hai trở ngại kéo dài mấy ngàn năm của các dụng cụ nội soi là ống soi cứng không thể đưa vào sâu trong lòng các tạng và không đủ sáng để quan sát.

Vào những năm 1960, nhờ những tiến bộ khoa học kỹ thuật về quang học, có ống soi mềm. Ống soi mềm dẫn ánh sáng bằng những sợi thủy tinh rất nhỏ. Với ống soi mềm và ánh sáng lạnh, có thể nhìn thấy các thương tổn rất nhỏ nằm trong lòng dạ dày, tá tràng, trực tràng, đại tràng, khí phế quản, đường mật, niệu quản...

Ngoài hình ảnh, ống soi mềm còn cho phép chải quét niêm mạc làm xét nghiệm tế bào, sinh thiết làm xét nghiệm mô học và làm nhiều thủ thuật điều trị.

Phát minh ống soi mềm là một cuộc cách mạng trong chẩn đoán các bệnh đường tiêu hóa.

Laser

Năm 1917 Albert Einstein (Đức) phát minh ra phát xạ cưỡng bức. Năm 1954 Towenes (Mỹ) phát hiện nguyên lý Laser dựa trên khuếch đại ánh sáng bằng phát xạ cưỡng bức(Light Amplification by Stimulated Emission of Radiation). Năm 1960 Maiman (Mỹ) chế tạo thiết bị Laser đầu tiên.

Laser được dùng trong nhiều ngành như quân sự, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, vận tải, đo đạc... và Y học. Trong Y học, Laser được dùng trong nhiều chuyên ngành. Laser Rubby được dùng trong bệnh ngoài da, Laser He-Ne dùng trong nhiễm trùng mưng mủ, chiếu nội mạch điều trị nhồi máu cơ tim, Laser Ar được dùng trong tiêu hóa, mạch máu, Laser Nd-YAG dùng trong tiết niệu, Laser CO₂ dùng trong phẫu thuật, Laser excimer dùng trong nhãn khoa. Laser giúp cầm máu trong những phẫu thuật. Dao Laser can thiệp những thương tổn mà dao thường khó với tới.

Cắt lớp vi tính

Năm 1972, máy cắt lớp vi tính ra đời (Grodfrey Hounsfield, Anh, 1919-2004). Hiện nay được sử dụng rộng rãi. Nó giúp ích rất nhiểu trong việc phát hiện, xác định tính chất, vị trí, liên quan của các khối u ở bụng, ngực. Giúp ích rất nhiều trong chẩn đoán khối máu tụ trong sọ mà trước kia có rất nhiểu khó khăn trong chẩn đoán vị trí và kích thước của chúng.

Cộng hưởng từ

Cộng hưởng từ ra đời năm 1977 (Felix Bloch, Mỹ gốc Thụy Sĩ, 1905-1993). Máy cộng hưởng từ rất tốt trong chẩn đoán bệnh của các mô mềm. Dùng nhiều trong chẩn đoán các bệnh của sợ não, khớp xương, cột sống...

Monitoring

Với monitor, trong phòng mổ và trong phòng hậu phẫu, bệnh nhân được theo dõi liên tục, thầy thuốc được báo hiệu về tuần hoàn, hỗ hấp với nhiều chỉ số sinh tổn như mạch, huyết áp, hơi thở, thân nhiệt... và với nhiều thông số về các xét nghiệm cần thiết cho sự sống như số lượng các tế bào máu, nồng độ các khí trong máu...

Nhờ theo dõi được nhiểu chỉ số sinh tổn một cách thường xuyên thẩy thuốc mạnh dạn hơn trong các phẫu thuật lớn, kéo dài nhiều gið.

Các phẫu thuật viên tiêu biểu

Sự phát triển của ngoại khoa gắn liền với những nhà phẫu thuật xuất chúng. Họ là những người mở đường cho những chuyên ngành trong ngoại khoa.

  • John Hunter (1728-1793), nhà giải phẫu học người Anh là người mở đường cho môn Phẫu thuật thực nghiệm. Sách giải phẫu học gọi ống đùi là ống Hunter.
  • Joseph Roиx (1780-1854), phẫu thuật viên tiêu hóa người Pháp. Kiểu nối Roux-en-Y vẫn được dùng hàng ngày.
  • Bernhard von Langenbeck (1810-1887), phẫu thuật viên người Đức, cha đẻ của loại hình đào tạo thường trú bệnh viện, hai người học trò nổi tiếng của ông là Billroth và Kocher.
  • Theodor Billroth (1829-1894), phẫu thuật viên tiêu hóa người Áo, một trong những phẫu thuật viên có ảnh hưởng lớn thời bấy giờ.
  • Theodor Kocher (1841-1917), phẫu thuật viên Thụy Sĩ, người mở đường cho phẫu thuật tuyến giáp, giải thưởng Nobel năm 1909.
  • William Halstedt (1852-1922), phẫu thuật viên người Mỹ, có nhiễu đóng góp trong phẫu thuật tuyến giáp, tuyến vú, thoát vị, mạch máu.
  • Rudolph Matas (1860-1957), phẫu thuật viên người Mỹ, mở đường cho phẫu thuật mạch máu. Phẫu thuật Matas dùng trong điều trị phồng động mạch.
  • Alexis Carrel (1873-1944), nhà phẫu thuật thực nghiệm người Pháp, quan tâm đến sự lành vết thương, cấy tế bào, ghép tạng, giải thưởng Nobel năm 1912. Một trường Đại học ở Lyon mạng tên ông.
  • Alfred Blalock (1899-1964), phẫu thuật viên mạch máu người Mỹ có nhiều đóng góp trong bệnh sinh của sốc. Phẫu thuật Blalock dùng trong điều trị mạch máu.
  • John Gibbon (1903-1973), phẫu thuật viên lồng ngực tim mạch người Mỹ có nhiều đóng góp trong sự phát triển tuần hoàn ngoài cơ thể.
  • Michael E. DeBakey, phẫu thuật viên người Mỹ có nhiều công trình nghiên cứu về tim mạch.
  • Tôn Thất Tùng (1912-1982), người mớở đường cho ngành ngoại khoa Việt Nam phát triển. Trong thời gian làm việc từ 1939- 1982, ông đã đào tạo hầu hết các phẫu thuật có khả năng của Việt Nam. Ông là người thực hiện những phẫu thuật phức tạp đầu tiên ở Việt Nam về tiêu hóa và gan mật (1939), về mổ tim kín (1958), mố tim'mở (1968)... Công trình nổi tiếng của ông là Phẫu thuật cắt gan qua chủ mô. Phương pháp này mang tên ông. Ông viết nhiều sách về phẫu thuật cắt gan trên kinh nghiệm hàng ngàn trường hợp.

Và nhiều nhà phẫu thuật tài năng khác nữa.