LỊCH SỬ SIÊU ÂM TIM
Nguyên lý siêu âm được Leopold Auenbrugger đặt nền móng năm 1761 tại Vienna - Áo.
Năm 1954 nguyên lý siêu âm M mode được hai nhà khoa học Inge Edler và Helmuth Hertz ứng dụng trong siêu âm tim để phát hiện u nhầy nhĩ trái và huyết khối buồng nhĩ. Tiếp sau đó các nhả tim mạch trên thế giới đã tiếp tục phát triển và đưa vào áp dụng các nguyên lý siêu âm Doppler; siêu âm hai bình diện (2D); siêu âm cản âm và siêu âm tim qua thực quản.
Năm 1974 máy siêu âm Duplex đầu tiên được sử dụng thường quy trong thực hành lâm sàng.
SIÊU ÂM TIM QUA THÀNH NGỰC
Siêu âm tim qua thành ngực là công cụ chẩn đoán không xâm lấn được sử dụng rộng rãi nhất trong thực hành tim mạch. Tính cơ động là một trong những ưu điểm của siêu âm tim so với các phương pháp chẩn đoán hình ảnh không xâm nhập khác đặc biệt trong những bệnh cảnh lâm sàng có tính cấp cứu.
Đối tượng bệnh nhân
Áp dụng cho cả bệnh nhân khám ngoại trú và bệnh nhân điều trị nội trú. Đối với các bệnh nhân nội trú được chia làm 3 nhóm: Nhóm bệnh nhân huyết động ổn định; bệnh nhân ở đơn vị hồi sức và bệnh nhân trong tình trạng cấp cứu. Tùy từng đối tượng bệnh nhân mà các thông tin cần mô tả trong bản siêu âm sẽ khác nhau để đạt được mục tiêu chẩn đoán và điều trị.
Siêu âm tim hai bình diện (2D)
Hội siêu âm tim Mỹ (ASE) đã xây dựng các thuật ngữ và quy trình chuẩn cho các thăm khám về siêu âm tim.
Bước đầu tiên là các vị trí và tư thế đặt đầu dò. Có 4 vị trí đặt đầu dò theo thứ tự là: vị trí trên hõm ức, cạnh ức trái, mỏm tim và dưới mũi ức.
Mặt cắt siêu âm được chia làm 3 loại: + Mặt cắt trục dài tương ứng với trục dọc của thất trái và vuông góc với mặt phẳng đứng ngang của cơ thể. + Mặt cắt trục ngắn làm mặt cắt vuông góc với mặt cắt trục dài và cắt qua trục ngang của thất trái. + Mặt cắt 4 buồng cũng theo hướng trục dọc của thất trái nhưng song song với mặt cắt đứng ngang. buồng

Hình 4.77. Ba mặt cắt cơ bản trong siêu âm tim
Hội Siêu âm tim Mỹ đã thống nhất tên gọi các cho các hình ảnh là phối hợp giữa vị trí đặt đầu dò và mặt cắt siêu âm. Ví dụ hình ảnh có được từ mặt cắt trục ngắn với đầu dò đặt ở cạnh ức trái được gọi là hình ảnh cắt ở mặt cắt trục ngắn cạnh ức trái.
Để có hình ảnh siêu âm tim tốt nhất bệnh nhân cần nằm ở tư thế phù hợp. Ba tư thế thông thường của bệnh nhân khi siêu âm tim là: nằm nghiêng trái, bán nghiêng trái và tư thế nằm ngửa, chống hai gối.
Vị trí trên hõm ức cho phép đánh giá động mạch chủ lên, quai động mạch chủ và động mạch chủ xuống ở mặt cắt trục dọc và trục ngắn.
Mặt cắt trục ngắn cạnh ức cho phép đánh giá thất trái theo mặt cắt ngang, mặt cắt trục dọc cạnh ức cho phép đánh giá đường ra thất trái, van hai lá và van động mạch chủ, nhĩ trái, thất phải, vùng trước vách, vùng mỏm và vùng thành sau thất trái.
Ở vị trí mỏm tim có thể đánh giá được tim ở mặt cắt hai buồng, ba buồng, bốn buồng và năm buồng tim.
Vị trí dưới mũi ức rất có ích ở bệnh nhân có bệnh phổi làm cản trở siêu âm trước thành ngực. Ngoài thăm khám tim mặt cắt trục dọc và trục ngắn, vị trí cửa sổ này giúp đánh giá tốt tĩnh mạch gan, tĩnh mạch chủ dưới và vách liên nhĩ.

Hình 4.78. Hình ảnh siêu âm tim 2D một số mặt cắt cơ bản (TT: thất trái, NT: nhĩ trái, ĐMC: động mạch chủ, TP: thất phải, NP: nhĩ phải, ĐMP: động mạch phổi)
Siêu âm M mode
Đóng vai trò quan trọng, bổ sung cho siêu âm tim 2D trong đánh giá chức năng thất trái, bệnh cơ tim, bệnh van tim và màng ngoài tim. Một số hình ảnh đặc hiệu có giá trị chẩn đoán có thể thấy trên siêu âm M mode: dấu hiệu SAM (systolic anterior motion) trong bệnh cơ tim phì đại, dấu hiệu đóng sớm van hai lá trong hở van ĐMC, dấu hiệu ép thất phải trong tràn dịch màng tim số lượng nhiều.

Siêu âm Doppler
Dùng đánh giá chênh áp, mức độ hẹp van, hở van thông qua đánh giá vận tốc dòng chảy trong các buồng tim. Có 3 tính năng của siêu âm Doppler là siêu âm Doppler xung (PW), siêu âm Doppler liên tục (CW) và siêu âm Doppler màu.
Siêu âm Doppler xung: sử dụng một tinh thể trong đầu dò phát sóng âm ngắt quãng và dừng lại để nhận tín hiệu phản hồi trước khi phát sóng âm tiếp theo. Ứng dụng của siêu âm Doppler xung: xác định các dòng chảy, đánh giá chức năng tâm trương, vận tốc qua đường ra thất trái và vận tốc dòng đổ về qua van hai lá,.... Các đo đạc được thực hiện tại đúng vị trí đặt tín hiệu siêu âm Doppler xung.
Siêu âm Doppler liên tục: sử dụng hai tinh thể trong đầu dò đồng thời một tinh thể phát xung và một tinh thể nhận tín hiệu phản hồi vì thế không có thời gian ngừng giữa các lần phát xung. Khác với siêu âm Doppler xung, Doppler liên tục không đánh giá vận tốc tại một điểm cụ thể mà cho phép ghi nhận các dòng chảy nằm trên trục của chùm tia siêu âm. Ứng dụng của siêu âm Doppler liên tục là đánh giá mức độ hẹp và hở van; đánh giá chênh áp giữa các buồng tim; đánh giá áp lực động mạch phổi qua phổ hở phổi và phổ hở van ba lá,..

Siêu âm Doppler màu: là dạng siêu âm Doppler được sử dụng nhiều nhất trong thăm khám tim mạch, chủ yếu đánh giá sự có mặt, hướng đi và vận tốc các dòng chảy. Vận tốc và hướng dòng máu được đánh giá qua mã hóa màu trên siêu âm 2D: dòng máu đi về phía đầu dò có màu đỏ, đi xa khỏi đầu dò có màu xanh. Ứng dụng của siêu âm Doppler màu để đánh giá dòng hở các van, dòng chảy qua lỗ bầu dục, lỗ thông liên nhĩ và lỗ thông liên thất,.... Siêu âm Doppler màu M mode được sử dụng đánh giá chức năng tâm trương, tổn thương hở van và hẹp trong buồng tim.
SIÊU ÂM TIM QUA THỰC QUẢN
Là một hình thức siêu âm tim với đầu dò siêu âm được đưa vào trong thực quản và dạ dày của bệnh nhân.
Vì không bị cản trở bởi các cấu trúc thành ngực nên siêu âm tim qua thực quản cho phép quan sát các cấu trúc tim và mạch máu lớn rất rõ nét.
Chỉ định lâm sàng
Chẩn đoán bệnh: + Tách động mạch chủ + Chẩn đoán viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn và các biến chứng của bệnh trên van tim tự nhiên và van nhân tạo + Xác định huyết khối buồng tim (tiểu nhĩ trái, tâm thất, van tim và động mạch chủ). + Quan sát các khối u tim + Đánh giá các bệnh tim bẩm sinh.
Siêu âm tim qua thực quản sử dụng trong phẫu thuật tim mạch và các can thiệp tim mạch qua đường ống thông.

Hình 4.83. Một số tổn thương trên siêu âm tim qua thực quản
Chống chỉ định
Chống chỉ định tuyệt đối: các bệnh lý thực quản: tắc, hẹp, giãn, thủng, lỗ rò thực quản; bệnh lý cột sống cổ gù vẹo cột sống....
Chống chỉ định tương đối: mới phẫu thuật thực quản; giãn tĩnh mạch thực quản, xuất huyết dạ dày; suy tim nặng, tăng huyết áp chưa khống chế, bệnh nhân không hợp tác.
SIÊU ÂM TIM STRESS (STRESS ECHOCARDIOGRAPHY)
Siêu âm tim stress được giới thiệu lần đầu tiên năm 1979 và được sử dụng để phát hiện bệnh mạch vành. Hiện nay kỹ thuật này được sử dụng trong chẩn đoán bệnh động mạch vành (đánh giá thiếu máu cơ tim), tiên lượng bệnh mạch vành (đánh giá sống còn cơ tim), khả năng gắng sức của người bệnh và các bệnh lý van tim.
Nguyên lý của siêu âm tim stress: khi cơ thể gắng sức sẽ dẫn tới bất thường vận động vùng thành tim chi phối bởi động mạch vành bị hẹp; những rối loạn vận động vùng này có thể phát hiện được trên siêu âm tim.
Ngoài ra siêu âm tim stress còn sử dụng trong đánh giá bệnh van tim, rối loạn chức năng tim và triệu chứng gắng sức do tim.
Có ba hình thức siêu âm tim stress là siêu âm tim stress thể lực bằng thảm chạy hoặc xe đạp lực kế, siêu âm tim stress bằng hóa dược với dobutamin hoặc dipyridamole và siêu âm tim stress khi kích thích gây tăng tần số tim. Với mỗi loại siêu âm tim stress sẽ có những quy trình cụ thể để chọn lựa cho phù hợp với bệnh nhân và cơ sở làm siêu âm.
SIÊU ÂM TIM CẢN ÂM (CONTRAST ECHOCARDIOGRAPHY)
Là phương pháp siêu âm tim kết hợp với tiêm chất cản âm vào mạch máu để tăng khả năng phát hiện các cấu trúc tim và các dòng chảy khi thăm dò siêu âm tim (qua thành ngực hoặc qua thực quản).
Chất cản âm sử dụng có thể là chất cản âm tự tạo hoặc chất cản âm được sản xuất sẵn (Optison 7, Sonovue, Cardiosphere,...)
Ứng dụng của siêu âm tim cản âm bao gồm: + Đánh giá luồng thông trong các bệnh tim bẩm sinh. + Xác định rõ các cấu trúc tim, đánh giá vận động thành tim, đo thể tích thất trái và làm tăng các tín hiệu Doppler khi thăm dò các dòng chảy trong những trường hợp hình ảnh siêu âm tim mờ. + Thăm dò tình trạng tưới máu cơ tim: sử dụng chất cản âm với kích thước bọt siêu nhỏ. + Thăm dò khoang màng ngoài tim khi chọc dịch màng tim.

