Bình thường mỗi ngày đi ngoài 1 lần (đôi khi có thể 2 lần). Táo bón là sự chậm vận chuyển phân thể hiện bởi 2 ngày trở 1ên mới đi ngoài một lần, thành phần nước trong phân ít dưới 75% thể hiện phân khô hoặc cũng lổn nhổn như sỏi, lượng phân cũng ít, thường dưới 35g.
QUÁ TRÌNH THẢI TIẾT PHÂN BÌNH THƯỜNG
Đại tràng và trực tràng hoạt động dưới sự điều khiển của các sợi thần kinh bài tiết norepinephrin và acetylcholin. Thần kinh phó giao cảm kích thích đại tràng co bóp, sự bài tiết các chất điện giải chi phối sự điều hoà hoạt động của các cơ đại tràng. Sự co bóp của đại tràng khác nhau tuỳ từng đoạn. Ở đại tràng lên, nơi hấp thu nước nhiều nhất, sự co bóp xảy ra nhịp nhàng và chậm chạp để kéo dài thời gian hấp thu. Ở đại tràng ngang, sự co bóp 1à co bóp từng đoạn để đẩy dần phân lên phía trước và kéo dài thời gian tiếp xúc của phân. Phần đại tràng xuống co bóp nhanh hơn, mạnh hơn, vừa bóp vừa đẩy phân xuống sâu hơn.
Phản xạ mót rặn gây nên bởi sự giãn đột ngột trực tràng. Đại tràng sigma và trực tràng co bóp (dưới sự điều hoà của một trung tâm thần kinh sát tuỷ sống) làm tăng áp lực trong trực tràng, đóng van giữa trực tràng và đại tràng cơ tròn hậu môn trong và ngoài mở ra đồng thời, đo đó phân được tống ra ngoài. Nghiệm pháp Vaisalva (rặn) nín thở để làm tăng áp lực ổ bụng làm cho quá trình tống phân được dễ dàng hơn, ngược lại co kéo cơ nâng hậu môn và cơ tròn hậu môn làm cho quá trình tống phân khó khăn hơn.
TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG
Bệnh nhân đi đại tiện rất khó khăn, phải rặn nhiều, phải vận dụng nhiều đến cơ bụng, cơ hoành. Phân rắn, lổn nhổn thành cục như phân dê. Có khi phải móc ra hoặc thụt tháo mới đi ngoài được. Ngoài triệu chứng đã mô tả ở trên, ta có thể thấy thêm một số triệu chứng khác:
Có thể đi ngoài ra máu tươi trước hoặc sau khi ra phân, do bệnh nhân phải rặn nhiều hoặc do xây xát ống hậu môn. Ngoài máu tươi có thể lẫn chất nhầy.
Bệnh nhân có thể có những rối loạn toàn thân như nhức đầu, mất ngủ, hồi hộp đánh trống ngực, ăn kém ngon.
Táo bón thường kèm theo với đau bụng, có trường hợp đau dữ đội, bụng chướng hơi.
Khám bụng: có thể sờ thấy cục phân lổn nhổn cứng nằm dọc khung đại tràng, thường tập trung ở hố chậu trái, có trường hợp nhầm với khối u ruột, khối hạch mạc treo, có trường hợp mổ nhầm khi bệnh nhân có triệu chứng bán tắc hoặc tắc ruột. Muốn phân biệt, ta cho thụt tháo phân rồi khám lại. Thăm trực tràng sẽ sờ thấy những cục phân cứng lổn nhổn.
NGUYÊN NHÂN
NGUYÊN NHÂN NGOÀI BỘ MÁY TIÊU HOÁ
- Nguyên nhân nội tiết: đái tháo đường, suy giáp trạng, cường giáp trạng.
- Nguyên nhân thần kinh: tổn thương màng não, tăng áp lực sọ não. Parkinson, cắt dây X, viêm tuỷ sống, viêm chèn ép các dây thần kinh, v.v...
- Rối loạn các chất điện giải: tăng calci máu, hạ kali máu.
- Một số thuốc: các thuốc bao bọc niêm mạc dạ dày, các thuố thuốc có sắt, chẹn p giao cảm, thuốc chống cholineric v.v...
- Nguyên nhân toàn thân: sốt cao kéo dài, nằm bất động kéo dài.
- Nguyên nhân ăn uống: chế độ ăn không hợp lý, quá nhiều rau hoặc quá ít rau, thiếu chất bã, uống ít nước, ăn nhiều thức ăn để gây táo (ổi, hồng xiêm...).
- Nghề nghiệp: ngồi lâu, ít vận động, nhiễm độc chì.
- Tâm lý thói quen: ngại đi ngoài, cố nhịn đi.
NGUYÊN NHÂN TẠI BỘ MÁY TIÊU HOÁ VÀ Ổ BỤNG
- To đại tràng bẩm sinh hay bệnh Hirschprung: Xảy ra ngay sau khi đẻ, do không có tế bào hạch trong đám rối thần kinh tự động ở mạc treo hay ở dưới niêm mạc của trực tràng sigma, hoặc thiếu các sợi sau hạch, kết quả là trực tràng nhỏ và đại tràng sigma co thắt gây giãn phần ở trên.
- To đại tràng không rõ nguyên nhân: Diễn biến dần dần táo bón mạn tính.
- Đại tràng quá dài
- Rối loạn trương lực đại tràng: Giảm nhẹ: gặp ở người già, gầy yếu. Tăng: hay gặp ở người làm việc quá sức, hay lo lắng hồi hộp.
- Các bệnh viêm đại tràng mạn tính, bệnh đại tràng chức năng: Táo bón và ỉa chảy xen kẽ nhau.
- Các khối u của đại tràng: gây cản trở co bóp
- Các tổn thương ở hậu môn: trĩ, nứt hậu môn
- Các khối u trong ổ bụng: Đè vào đại tràng khi có thai, u hạch mạc treo v.v.. dính và đè vào đại tràng.
- Dày dính: vắt ngang qua đại tràng nhất là dính sau mổ.
