GIẢI PHẪU
Thực quản là một ống dẫn thức ăn nối hầu với dạ dày, đi từ cổ qua trung thất, xuyên qua cơ hoành một đoạn ngắn rồi đổ vào dạ dày. Chỗ đổ vào đó gọi là tâm vị. Thực quản dài khoảng 25cm, chia làm 3 phần:
Thực quản trên: (đoạn nối hầu và thực quản) tạo bởi cơ vân: cơ nhẫn hầu. Cơ này tạo nên cơ thắt trên (sphincter) của thực quản.
Thực quản giữa: Phần trên của đoạn này chỉ có cơ vân nhưng sau đó là các sợi cơ trơn ngày càng nhiều, cho đến giữa thực quản thì chỉ còn cơ trơn mà thôi. Sự chuyển tiếp từ cơ vân sang cơ trơn trong lớp cơ vòng cao hơn lớp cơ dọc.
Thực quản dưới: Chui qua một khe của cơ hoành đổ vào dạ dày. Ở đoạn này tạo nên một cơ thắt giả chỉ thể hiện qua áp lực mà không có về mặt giải phẫu.
Thần kinh chi phối thực quản: Là các sợi phó giao cảm của thần kinh phế vị, và một vài sợi giao cảm. Thần kinh nội tại là đám rối Auerbach ở trong lớp cơ và đám rối Messner ở lớp hạ niêm mạc.

Hình 7.28. Giải phẫu đoạn thực quản dưới
HOẠT ĐỘNG CO BÓP CỦA THỰC QUẢN
Chịu ảnh hưởng của hai yếu tố chính
- Yếu tố thần kinh
Sợi thần kinh trung ương đến: các sợi thần kinh phó giao cảm từ hành tuỷ (chiếm ưu thế) và các sợi thần kinh giao cảm từ tuỷ sống đến.
Đám rối thần kinh nội tại
- Yếu tố thể dịch
Acid làm tăng co bóp cơ thắt thực quản dưới, kiềm thì có tác dụng ngược lại. Các chất: secretin, cholecystokinin, glucagon, chẹn a giao cảm, kích thích p giao cảm... làm giảm co thắt của cơ thực quản. Các thất: gastrin, pentagastrin, prostaglandin, kích thích a giao cảm làm tăng co thắt.
CÁC TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG
Đau
Đau do tổn thương viêm loét thực quản, trào ngược dạ dày - thực quản có tính chất: Đau dọc phía sau xương ức, tính chất rát bỏng, tăng lên sau khi ăn, có thể kèm theo ợ hơi - ợ chua, lan lên cằm hoặc vai trái.
Tuy nhiên, đau do thực quản thường không điển hình và phải phân biệt với các nguyên nhân khác, đặc biệt là bệnh lý tim mạch như nhồi máu cơ tim...
Nuốt khó và nuốt đau
Xem phần dưới.
Ợ
Là hiện tượng dịch và hơi trong thực quản trào ngược lên miệng, do rối loạn co bóp của thực quản, hoặc do thực quản hẹp thức ăn không tống xuống hết dạ dày mà đọng lại trong thực quản, đến một lúc nào đó làm thực quản căng ra, gây tăng áp lực trong thực quản làm thực quản co lại nhưng không tổng xuống phía dưới được mà phải trào ngược lên miệng.
Cần phân biệt: ợ nước và thức ăn, nếu có vị chua 1à có lẫn dịch vị, chứng tỏ thức ăn từ dạ dày lên, nếu không có vị chua, chứng tỏ thức ăn từ thực quản lên.
Các triệu chứng do rối loạn chức năng
Các triệu chứng nuốt khó, nuốt đau, đau sau xương ức có thể biểu hiện rõ ràng trên lâm sàng, nhưng không tìm tổn thương tương ứng ở các thăm dò cận lâm sàng. Trong trường hợp này, người ta quy các triệu chứng trên vào nhóm bệnh rối loạn chức năng hay rối loạn dạng cơ thể, được phân loại theo tiêu chẩu Rome IV (2016).
KHÁM CẬN LÂM SÀNG THỰC QUẢN
X-quang
Là phương pháp phổ biến trước đây, nhưng hiện nay nội soi đã thay thế X-quang và đứng hàng đầu trong chẩn đoán. Sau khi 1àm đầy thực quản bằng một nhũ dịch baryte, chụp thực quản ở nhiều tư thế khác nhau: đứng, nằm, chụp thẳng và nghiêng, nếu cần phải chụp cả tư thế đầu thấp.
Bình thường: thực quản là một ống thẳng hoặc có 3 chỗ hơi hẹp tương ứng với cơ vòng trên và dưới và chỗ hẹp ở giữa (phim chụp thẳng). Trên phim nghiêng có thể thấy một chỗ lõm tương ứng với quai động mạch chủ.
Mục đích: chụp X-quang thực quản là để phát hiện:
- Hẹp thực quản do bên ngoài đè vào hay u ở bên trong.
- Hẹp thực quản do bên ngoài đè vào ha - Ung thư thực quản: hình hẹp và cứng.
- To thực quản (do achalasie).
- Giãn tĩnh mạch thực quản.
- Viêm thực quản.
- Thoát vị (hernie) cơ hoành.
- Lỗ rò thực quản khí quản.
- Túi thừa.
Nội soi và sinh thiết
Là thăm dò phổ biến nhất chẩn đoán các bệnh lý ở thực quản
Mục đích của nội soi: ngoài mục đích chẩn đoán, nội soi còn được áp dụng trong trường hợp nghi có dị vật trong thực quản, trong họng.
Trong trường hợp này nội soi vừa chẩn đoán vừa điều trị. Ưu điểm của nội soi là có thể làm sinh thiết được và tiến hành điều trị (cầm máu).
Chống chỉ định: bỏng do hoá chất.
Tai biến: với dây soi mềm gần như không có tai biến.
Siêu âm nội soi
Là máy nội soi ống mềm có gắn thêm đầu dò siêu âm.
Được áp dụng để chẩn đoán bệnh lý ở thành thực quản, dưới niêm mạc thực quản mà nội soi thông thường không đánh giá được.
Siêu âm nội soi có thể đánh giá được mức độ xâm lấn của ung thư thực quản, cũng như các hạch di căn xung quanh.
Đo áp lực trong thực quản (esophageal manometry)
Là thăm dò có giá trị để phát hiện và phân loại các rối loạn vận động của thực quản.
Người ta dùng ống thông có gắn các cảm biến áp lực với khoảng cách 1cm hoặc 3cm vào lòng thực quản, kết hợp với những bài test nuốt chất lỏng hoặc chất rắn, kết quả thu được có thể vẽ lại chu trình chuyển động của thực quản từ đó tìm ra những rối loạn vận động thực quản.
Đo pH trong lòng thực
Là thăm dò chẩn đoán trào ngược dạ dày - thực quản, đặc biệt là các trường hợp trào ngược dạ dày - thực quản không có tổn thương phát hiện trên nội soi.
Đặt một dây dẫn qua đường mũi có gắn cảm biến pH vào lòng thực quản, vị trí cảm biến thường được đặt ở 1/3 dưới thực quản, cảm biến có thể lưu 24h để đánh giá chính xác thời điểm và mức độ của trào ngược dịch vị lên thực quản.
