ĐẠI CƯƠNG
Trong những năm gần đây, sự hiểu biết về các bệnh nội tiết ngày một sâu rộng hơn nhờ việc thăm khám lâm sàng tỷ mỉ kỹ càng, đặc biệt là nhờ vào các phương pháp thăm dò hiện đại về X-quang, phóng xạ, sinh hoá và miễn dịch.
Tuyến nội tiết là những tuyến tiết ra hormon, các chất này đổ vào các mạch máu đi của tuyến. Ngay ở tế bào của tuyến, các tĩnh mạch nằm trong tuyến, các tân mạch từ tuyến đi ra, người ta thấy có những chất mang tính chất hoá học của một chất nội tiết đặc hiệu. Mỗi tuyến nội tiết tiết ra một số hormon có chức năng đặc hiệu riêng cho tuyến đó.
Các tuyến nội tiết kinh điển gồm tuyến yên, tuyến giáp, tuyến cận giáp, tiểu đảo tuỵ, tuyến thượng thận và sinh dục (buống trứng ở nữ và tinh hoàn ở nam). Ngoài tuyến nội tiết kinh điển còn có hệ thần kinh nội tiết (vùng dưới đồi và một số nhân trên thị) và hệ thống nội tiết lan toả. Các tuyến nội tiết có tác động lớn tới các cơ quan khác thông qua hệ thần kinh, hormon, cytokines và yếu tố tăng trưởng. Bên cạnh chức năng dẫn truyền thần kinh, não sản xuất một lượng lớn các peptide để thực hiện vai trò thần kinh nội tiết. Các tế bào của hệ thống nội tiết lan toả gặp trong ống tiêu hoá, đường mật, tuỵ, đường hô hấp, bộ máy sinh dục, tuyến vú, mô mỡ... Vai trò của các tế bào này gồm cả hai: nội tiết và cận nội tiết, nghĩa là có một tác dụng vận động tại chỗ lên chuyển hoá của tổ chức chủ. Các chất được sản xuất bởi hệ thống nội tiết lan toả gồm: serotonin, thyrocalcitonin, enteroglucagon, secretin, gastrin, adiponectin, leptin.
Bệnh nội tiết có thể do rối loạn của một hay nhiều tuyến. Các tuyến nội tiết hầu hết rất nhỏ, nằm sâu trong cơ thể (trừ tuyến sinh dục và giáp trạng), do đó rất khó khám trực tiếp. Hơn nữa, các biến đổi ban đầu của các tuyến nội tiết phần lớn lại từ biến đổi về thể dịch và sinh hoá, có thể nói, bệnh nội tiết là một bệnh về sinh hoá. Ngoài sự thay đổi ngay tại tuyến (về hình thể, kích thước, mật độ...), bao giờ hormon cũng có ảnh hưởng đến toàn thể trạng người bệnh, nên bệnh nội tiết là bệnh toàn thân. Do đó thăm khám tuyến “nội tiết” đòi hỏi phải tỷ mỉ, toàn diện, kết hợp lâm sàng và các phương pháp thăm dò tuyến, sau đó phải tổng hợp để xem các rối loạn ấy thuộc hội chứng suy hay cường của tuyến nào?
NHẮC LẠI VỀ GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ
Các tuyến nội tiết chính bao gồm: tuyến yên, tuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến tuỵ, tuyến thượng thận và sinh dục (tinh hoàn và buồng trứng).
Các tuyến tổng hợp hormon, giải phóng vào hệ tuần hoàn và tác động tới các cơ quan đích ở xa. Bệnh nội tiết gây ra do hormon được sản xuất vượt quá hoặc thiếu hụt, do cơ quan đích tăng nhạy cảm hoặc kháng lại hormon. Bên cạnh một vài tuyến nội tiết như tuyến cận giáp, tuyến tuỵ điều hoà nhờ đáp ứng trực tiếp với các tín hiệu chuyển hoá, phần lớn các tuyến còn lại được điều khiển bởi các hormon của tuyến yên.

KHÁM LÂM SÀNG
Quan sát hình dạng người bệnh
Hầu hết các bệnh nội tiết đều có ảnh hưởng đến hình dáng chung của người bệnh. Cần chú ý những điểm sau:
Nhìn tổng thể
- Tư thế lúc nghỉ ngơi, lúc đi lại.
- Hình dạng mặt, thân, các chi.
Màu sắc, tính chất của da.
Nhiều khi nhìn đã giúp ta nghĩ tới bệnh nào đó của tuyến nội tiết, như: thay đổi mặt, các đầu chi trong bệnh to đầu chi; bướu giáp trạng có lồi mắt trong bệnh Basedow, vẻ mặt chậm chạp, thờ ơ trong suy giáp...

Chiều cao
- Dùng thước, việc đo chiều cao rất cần thiết, nhất là đối với những người bệnh chưa đến tuổi trưởng thành.
- Đo chiều cao của người bệnh, đánh giá chiều cao so với tuổi tương ứng để biết cao quá hay lùn quá so với bình thường, nhất là đối với trẻ em và những người trẻ tuổi.
- Đồng thời phải đo các xương dài (cẳng tay, cánh tay, cẳng chân, đùi), đo vòng đầu xem có hiện tượng não úng thuỷ hay đầu quá nhỏ, đo vòng ngực... để đánh giá sự cân đối giữa các bộ phận.
- Người bệnh cao có thể do có yếu tố di truyền (bố mẹ cao), hoặc đôi khi do bệnh lý: bệnh khổng lồ (do tiết nhiều hormon GH), hội chứng Klinefelter, hội chứng Marfan.
- Người bệnh thấp lùn có thể gặp trong bệnh lùn tuyến yên (do thiếu hụt hormon GH).
Cân nặng
- Theo dõi cân nặng người bệnh, sự thay đổi cân nặng qua các giai đoạn của bệnh, thời gian xuất hiện và các điều kiện xuất hiện của gầy hoặc béo. Cân nặng tăng hay giảm còn liên quan đến chế độ ăn và giác ngon miệng của người bệnh.
- Gày:
- Có thể gầy tự nhiên: lớp cơ phát triển cân đối, nhưng không có lớp mỡ dưới da.
- Gày bệnh lý: lớp cơ và mỡ đều rất kém phát triển. Ví dụ: người bệnh ăn ngon miệng, ăn nhiều nhưng vẫn gầy sút cân trong bệnh cường giáp, đái tháo đường, người bệnh mất cảm giác ngon miệng và gày sút cân trong bệnh suy thượng thận hoặc các bệnh lý đường tiêu hoá (đặc biệt bệnh ác tính).
- Béo:
- Có thể béo toàn thân hay kl bụng và ngực.
- Bệnh nhân có thể t ngoại sinh), bệnh Cushing (do tăng corticoid nội sinh hoặc ngoại sinh), suy giáp.
Da và niêm mạc, lông, tóc, móng
Da và niêm mạc
- Xem thay đổi về màu sắc, sự xuất hiện các mảng sắc tố. chú ý khám những chỗ da đặc biệt như cùi tay, các nếp cổ, bàn tay, gan bàn tay, bẹn.
- Các tổn thương thường gặp: da khô, lạnh trong bệnh suy giáp, và ngược lại da nóng, ẩm, nhiều mồ hôi trong bệnh cường giáp.
- Gai đen (Acanthosis nigricans) có thể gặp trong bệnh to đầu chi, tình trạng kháng Insulin (hội chứng Cushing, hội chứng buồng trứng đa nang). Da mỏng, tím, rạn da, xuất huyết tự nhiên trong hội chứng Cushing.
- Sắc tố da: da sạm trong bệnh Addison, da nhạt màu trong bệnh suy tuyến yên, các đám bạch biến có thể xuất hiện trong các bệnh lý tự miễn (suy giáp, basedow).
- Đánh giá tình trạng thay đổi tiết mồ hôi: tăng tiết mồ hôi có thể gặp trong bệnh cường giáp, u tuỷ thượng thận, hạ đường huyết, mãn kinh.
- Niêm mạc:
- Xạm niêm mạc, có những đốm đen ở niêm mạc má, sàn miệng, niêm mạc quanh âm đạo, hậu môn trong bệnh Addison.
- Niêm mạc bị thâm nhiễm, to ra trong bệnh suy giáp (lưỡi to, niêm mạc mũi phù nề).

Lông, tóc, móng
- Tóc, lông mi, lông mày:
- Tóc, lông khô và dễ gãy trong bệnh phù niêm (myxoedeme).
- Thưa thớt trong suy sinh dục.
- Dựa vào vị trí tóc mọc ở vùng gáy và trán ta đánh giá những biểu hiện nam tính và nữ tính.
- Râu:
- Mọc râu ở nữ trong bệnh Cushing.
- Không có râu ở nam trong bệnh suy sinh dục.
- Móng dễ gãy trong bệnh phù niêm.
- Răng:
- Mọc kém, sâu trong suy cân giáp trạng.
- Dễ gãy, có mủ lợi, dễ rụng trong đái tháo đường.
- Răng mọc thưa trong bệnh to đầu chi.
Khám các bộ phận
Bộ máy sinh dục: Hầu hết các bệnh nội tiết đều gây rối loạn sinh dục.
Về chức năng
- Nữ: hỏi về kinh nguyệt.
- Ngày bắt đầu có kinh, số ngày của vòng kinh, tính chất kinh nguyệt.
- Ngày mất kinh: vô kinh tiên phát có thể do suy buồng trứng (hội chứng Turner) hoặc suy sinh dục do tổn thương vùng dưới đồi, tuyến yên bẩm sinh, cường androgen (béo phì, bệnh thận mãn). Vô kinh thứ phát được định nghĩa là sự dừng xuất hiện kinh nguyệt từ 6 tháng trở lên, có thể do mang thai, mãn kinh hoặc do tình trạng bệnh lý (tăng tiết prolactin máu, bệnh tuyến yên...).
- Đồng thời phải hỏi kỹ về sinh đẻ, số lần sảy thai.
- Nam: hỏi về chức năng cương dương:
- Mất chức năng cương dương có thể do suy sinh dục tiên phát hoặc thứ phát.
- Biến chứng thần kinh tự động (do bệnh đái tháo đường hoặc do rượu), bệnh tuỷ sống, teo tinh hoàn có thể gây ra tình trạng trên.
- Vú tiết sữa: thường do u tuyến yên tiết prolactin, vú tiết sữa 1 hoặc 2 bên, thường xuất hiên triệu chứng 80% ở nữ và 30% ở nam.
Thăm khám bộ phận sinh dục
- Ở nữ:
- Xem kích thước, vị trí của lỗ âm đạo.
- Hình dáng của môi to, môi bé, âm vật.
- Tình trạng, thể tích âm đạo, tử cung, vú.
- Ở nam:
- Kích thước của vú, dương vật, bìu.
- Vị trí, độ lớn, cảm giác, số lượng tinh hoàn.
Bộ máy tuần hoàn
Huyết áp: đo huyết áp đánh giá cao hay thấp
- Tăng huyết áp:
- Cần loại trừ nguyên nhân gây tăng huyết áp di truyền, viêm thận mạn hoặc do bệnh van tim
- Có thể thấy tăng huyết áp do cường tuỷ và vỏ thượng thận, bệnh Basedow, biến chứng do đái tháo đường.
- Hạ huyết áp: có thể thấy trong bệnh Addison.
Tim: thường ảnh hưởng tới cơ tim và động mạch vành.
- Nhịp tim nhanh, rối loạn nhịp tim, suy tim trong bệnh Basedow.
- Nhịp tim chậm trong suy giáp trạng và suy tuyến yên.
- Xơ vữa động mạch (vành, não, ngoại vi), suy tim trong bệnh đái tháo đường.
- Tim to hay tràn dịch màng ngoài tim do suy giáp.
Bộ máy tiêu hoá
Khẩu vị: Khẩu vị có thể bị giảm sút rõ rệt trong rối loạn hạ khẩu não - yên như: chán ăn trong bệnh Simmonds, ăn uống quá nhiều trong bệnh đái tháo đường.
Các rối loạn do phản ứng của thần kinh thực vật dạ dày
- Tiêu hoá kém, táo bón trong bệnh suy giáp, tăng calci máu.
- Ỉa chảy, tăng nhu động ruột trong bệnh Basedow.
- Đau bụng, nôn mửa trong hạ calci máu.
Bộ phận vận động
Sự phát triển của bộ xương chịu ảnh hưởng không những của tuyến cận giáp trạng, mà còn của cả estrogen, và androgen và cortison. Xương dễ vỡ và gãy có thể gặp trong suy sinh dục, hội chứng cường giáp, hội chứng Cushing; thoái khớp hay gặp trong bệnh đái tháo đường.
Tình trạng thể lực, tinh thần
Thể lực: xem cường độ và chịu đựng của sức:
- Lười hoạt động và hoạt động chậm chạp trong bệnh suy giáp và ngược lại trong bệnh cường giáp.
- Yếu cơ có có thể xuất hiện trong các bệnh cường giáp, cường cận giáp, hội chứng Cushing, bệnh nhuyễn xương. Cơ lực lúc đầu khoẻ, nhưng giảm rất nhanh trong Addison.
Tinh thần
- Trí nhớ, trí thông minh kém phát triễn trong bệnh suy giáp.
- Dễ xúc động, cáu gắt, hay sợ trong bệnh Basedow.
Hỏi tiền sử
Tiền sử bản thân
- Hỏi về tiền sử tất cả các bệnh lý nội tiết đã được chẩn đoán và điều trị:
- Tuyến giáp: điều trị thuốc kháng giáp trạng tổng hợp hoặc hormone tuyến giáp, phóng xạ (iod phóng xạ do bệnh lý tuyến giáp hoặc tia xạ vùng cổ do các bệnh lý ác tính vũng đầu mặt cổ), phẫu thuật cắt tuyến giáp toàn bộ hoặc bán phần, có thể ảnh hưởng tới tuyến cận giáp (suy tuyến cận giáp).
- Tiền sử phẫu thuật tuyến thượng thận hoặc tuyến yên dẫ tới suy tuyến thượng thận, suy tuyến yên, tình trạng điều trị thay thế trước đó.
- Tiền sử chẩn đoán và điều trị bệnh đái tháo đường (chế độ ăn, thuốc viên hạ đường huyết, insulin), các biến chứng của bệnh đã được chẩn đoán và điều trị.
- Tiền sử gãy xương tự nhiên trong bệnh loãng xương.
- Tiền sử mắc các bệnh lý khác: lao, HIV, bệnh tự miễn.
- Tiền sử sử dụng thuốc: glucocorticoid trong hội chứng Cushing do thuốc, thuốc kháng đồng vận dopamine trong bệnh tăng prolactin máu.
Tiền sử thai sản (nữ)
- Đái tháo đường thai kỳ, đẻ con to > 4kg (đái tháo đường).
- Tiền sử mất máu sau đẻ (hội chứng Sheehan).
Tiền sử gia đình
- Một số bệnh nội tiết có thể có tính chất gia đình: bệnh tuyến giáp, đái tháo đường.
- Hội chứng đa u tuyến nội tiết (MEN) là tình trạng hiếm gặp di truyền gen trội, biểu hiện u tuyến yên, ung thư tuyến giáp thể tuỷ, u tuỷ thượng thận và u tuỵ.
Các phương pháp thăm dò tuyến
Với các biểu hiện lâm sàng trên, giúp ta rất nhiều để định hướng tới chẩn đoán. Nhưng muốn chắc chắn, phải tiến hành các phương pháp thăm dò tuyến.
Thăm dò về hình thái
Chủ yếu dựa vào siêu âm, X-quang thường quy, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, chụp phóng xạ. Tùy từng tuyến, có thể áp dụng các phương pháp pháp khác nhau, nhằm tìm và đánh giá thể tích tuyến mà không đo được khi khám lâm sàng.
- Bệnh tuyến tuỵ:
- Siêu âm, chụp XQ bụng thường quy tìm sỏi tuỵ trong bệnh đái tháo đường do viêm tuỵ mạn.
- Siêu âm, siêu âm nội soi hoặc chụp cắt lớp vi tính tìm u tuỵ tiết insulin.
- Bệnh tuyến giáp:
- Siêu âm tuyến giáp đánh giá thể tích tuyến, tình trạng mạch máu, số lượng, kích thước và tính chất nhân tuyến giáp.
- Chụp XQ ngực thường khi nghi ngờ tuyến giáp to chìm vào lồng ngực có thể thấy hình tuyến to ra, đè đẩy vào khí quản, thực quản, và quan sát rõ hơn khi người bệnh uống Baryt.
- Đo độ tập trung I 131 và xạ hình tuyến giáp với I 131 để biết hình thái và mật độ thu nạp Iôt của tuyến giáp trạng, tính chất nhân tuyến giáp (nhân nóng trong bướu nhân độc giáp trạng hoặc nhân lạnh) hoặc tìm vị trí tuyến giáp lạc chỗ.

- Bệnh Addison: chụp XQ bụng không chuẩn bị hoặc chụp cắt lớp vi tính tuyến thượng thận 2 bên thường có thể thấy các nốt vôi hoá ở tuyến.
- U tuyến thượng thận: siêu âm hoặc chụp cắt lớp vi tính để phát hiện u tuyến thượng thận.
- Bệnh tuyến yên:
- Chụp XQ sọ nghiêng để biết hố yên có rộng ra không trong u tuyến yên.
- Chụp cộng hưởng từ tuyến yên để phát hiện các khối u tuyến yên, dưới đồi hoặc hội chứng hố yên rỗng.

- Bệnh tuyến sinh dục: X
- Siêu âm đánh giá vị trí, số lượng, kích thước tử cung, buồng trứng, tinh hoàn.
- Chụp tử cung sau khi bơm thuốc để biết hình thể tử cung, sự thông của vòi trứng.
- Tuyến cận giáp:
- Siêu âm đánh giá vị trí, số lượng tuyến cận giáp (u tuyến cận giáp tiên phát hoặc thứ phát).
- Xạ hình tuyến cận giáp bằng Sestamibi Tc99m.
- Chụp cộng hưởng từ vùng cổ đánh giá u tuyến cận giáp
- Chụp các đầu xương để xem các điểm cốt hoá: các điểm cốt hoá xuất hiện có giá trị rất lớn, trong chẩn đoán bệnh ở người trước tuổi trưởng thành. Ví dụ: sự chậm xuất hiện trong bệnh suy giáp, lùn tuyến yên, sớm trong cường tuyến giáp trạng ở trẻ em.
- Chụp XQ xương, đo mật độ xương đánh giá mức độ loãng xương.

Thăm dò chức năng
Trong việc khám các tuyến nội tiết, thăm dò chức năng tuyến giữ vị trí hết sức quan trọng. Trong một số tuyến nội tiết, lúc bắt đầu của bệnh, chỉ có rối loạn trong thể dịch, phải phát hiện bằng xét nghiệm sinh hoá, đặc biệt là định lượng các hormon. Phương pháp chủ yếu để thăm dò chức năng tuyến nội tiết là:
Xét nghiệm máu
Tuỳ vào định hướng từng bệnh, cần làm các xét nghiệm riêng:
- Bệnh lý tuỵ (đái tháo đường, hạ đường huyết do u tuỵ tiết insulin):
- Glucose máu đói, glucose máu bất kỳ, glucose máu sau ăn 2 giờ.
- Nghiệm pháp dung nạp glucose (cho bệnh nhân thường và phụ nữ
- HbAlc: glucose kết hợp với hemoglobin (Hb) liên tục và gần như không hồi phục trong suốt đời sống của hồng cầu. Khi nồng độ glucose máu tăng cao hơn mức bình thường trong thời gian đủ dài, glucose sẽ phản ứng với Hb mà không cần sự xúc tác của enzym. Phản ứng xẩy ra trong hồng cầu, glucose sẽ phản ứng với Hb tạo thành hemoglobin bị glycosyl hóa. Để biểu thị hemoglobin bị glycosyl hóa người ta định lượng phần HbAlc bị glycosyl hóa, gọi tắt là HbAlc, tính ra đơn vị %.Vì vậy HbAlc là chỉ số giúp đánh giá đường máu trung bình trong 2-3 tháng trước đó
- Định lượng insulin, C-Peptid.
- Nghiệm pháp hạ đường huyết
- Tuyến giáp:
- Định lượng T3, FT3, T4, FT4, TSH.
- Định lượng các loại kháng thể: TG, anti TG, anti TPO, TRAb.
- Bệnh tuyến thượng thận:
- Định lượng cortisol máu 8 giờ, 20 giờ.
- Định lượng ACTH.
- Định lượng renin, aldosterone máu trong cường aldosterone máu (aldosterone do lớp cầu tuyến vỏ thượng thận sản xuất), ví dụ hội chứng Conn (cường aldosterone do u vỏ thượng thận gây tăng huyết áp, hạ kali máu kèm theo kiềm chuyển hoá).
- Điện giải máu: natri, kali, clo trong các bệnh lý do tuyến vỏ thượng thận.
- Nghiệm pháp ức chế dexamethason liều thấp và liều cao qua đêm, 2 ngày chẩn đoán hội chứng Cushing.
- Bệnh tuyến yên:
- Định lượng các hormon tuyến yên: GH, ACTH, LH, FSH, TSH, prolactin.
- Định lượng hormon của các tuyến đích do tuyến yên chi phối: FT3, FT4, cortisol, estrogen, progesteron, testosterone.
- Định lượng ADH (suy thuỳ sau tuyến yên).
- Bệnh lý về xương:
- Định lượng nồng độ PTH máu.
- Định lượng nồng độ vitamin D, calci, phospho.
Xét nghiệm nước tiểu
- Định lượng andosterone, 17 hydroxycorticosteroid trong bệnh vỏ thượng thận.
- Định lượng adrenalin, noadrenalin, epinephrine trong bệnh tuỷ thượng thận.
- Định lượng glucose niệu trong đái tháo đường.
- Định lượng iod trong nước tiểu trong bệnh tuyến giáp trạng.
- Đo tỷ trọng nước tiểu, áp lực thẩm thấu niệu (suy thuỳ sau tuyến yên).
Một số nghiệm pháp thăm dò chức năng tuyến
Sau khi đã thăm khám kỹ lâm sàng, các biểu hiện bệnh lý trên người bệnh giúp ta hướng tới một bệnh nào đó, lúc ấy cần phải cân nhắc để tiến hành các nghiệm pháp thăm dò về hình thái và chức năng cần thiết cho mỗi bệnh.
Chủ yếu là áp dụng các phương pháp kích thích và kìm hãm dựa trên vai trò điều chỉnh của các tuyến.
- Nghiệm pháp Thorn trong bệnh Addison.
- Nghiệm pháp Kater Robins trong bệnh đái tháo nhạt và sự liên quan có đi có lại của hạ khâu não và tuyến yên đối với các tuyến nội tiết khác.
- Nghiệm pháp Werner và Qúerido trong bệnh tuyến giáp.
CÁC HỘI CHỨNG CHỦ YẾU
Các bệnh nội tiết có thể chia thành ba nhóm:
Hội chứng cường hay suy một tuyến
Các hội chứng cường hay suy đơn thuần của tuyến có thể thấy trong hầu hết các tuyến nội tiết:
Hội chứng cường tuyến
- Thường do sự phát triển lành hay ác tính của tổ chức tuyến gây ra ( ví dụ: bệnh Basedow, cường cận giáp tiên phát do u tuyến cận giáp...).
- Người ta có thể gây ra hội chứng này trên súc vật hoặc trên người bằng cách dùng hocmon kéo dài (ví dụ: hội chứng Cushing do thuốc glucocorticoid, cường giáp do thuốc hormon tuyến giáp).
Hội chứng suy tuyến
- Thường do sự phá huỷ tổ chức tuyến bởi một khối u (lành hay ác tính), bởi nhiễm khuẩn (như lao trong Addison), sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến một phần hay toàn bộ.
- Người ta có thể gây ra hội chứng này trên súc vật hay trên con người bằng việc cắt bỏ nhu mô tuyến (như trong suy giáp sau khi phẫu thuật cắt bỏ giáp, suy cận giáp gây ra cơn Tetani sau khi cắt tất cả các tuyến cận giáp trạng).
Hội chứng phối hợp các rối loạn của nhiều tuyến
Thường rất phức tạp, ở đây chỉ nêu lên hai loại.
Thuỳ trước tuyến yên
- Tuyến yên được coi như “nhạc trưởng” chỉ huy tất cả các ra hormon kích giáp tố, kích tố vỏ thượng thận, kích sinh dục tố.
- Trong trường hợp suy thuỳ trước tuyến yên, người bệnh sẽ biểu hiện suy giáp trạng, suy vỏ thượng thận, suy sinh dục. Đó là trường hợp điển hình của suy nhiều tuyến.
Trong rất nhiều bệnh nội tiết
Trong các bệnh cường giáp trạng, suy giáp trạng, cường vỏ thượng thận...thường thấy có suy sinh dục kèm theo.
Các hội chứng phối hợp rối loạn thần kinh và rối loạn nội tiết
- Biểu hiện phức tạp.
- Ví dụ bệnh Basedow: do não trung ương - tuyến yên bị tổn thương (vì xúc động, nhiểm khuẩn.) hoạt động rối loạn, đưa lại kết quả là tăng tiết hormon kích giáp tố của tuyến yên. Sự quá tiết hormon này dẫn tới cường chức năng giáp trạng và các rối loạn về thần kinh trong bệnh Basedow.
KẾT LUẬN
Các tuyến nội tiết tham gia vào các quá trình hoạt động rất quan trọng của cơ thể.
Các biểu hiện lâm sàng của các bệnh nội tiết muôn màu muôn vẻ và sự thay đổi về sinh hoá cũng rất phức tạp.
Nhưng mỗi bệnh cũng có biểu hiện riêng, có những thay đổi về thể dịch đặc hiệu, nên nếu biết thăm khám tỉ mỉ, biết kết hợp lâm sàng và các phương pháp thăm khám cận lâm sàng tuyến, thì có thể phát hiện được bệnh.
