Cho đến ngày nay, nhiễm khuẩn vẫn còn là một vấn để lớn trong phẫu thuật, không phải chỉ riêng ở nước ta mà cả trên thế giới cũng vậy. Dù có nhiễu tiến bộ đáng kể về kỹ thuật phẫu thuật, về vi khuẩn học... nhưng nhiễm khuẩn vẫn tiếp tục xảy ra với nhiều loại và nhiều mức độ trẩm trọng khác nhau.
Từ lâu nhiễm khuẩn là một trọng những trở ngại lớn cho sự tiến bộ của ngoại khoa. Trước kia dựa vào thuyết “tự do phát sinh" (generation spontanée), các thầy thuốc cho đó là không tránh được trong diễn biến của vết thương hoặc vết mổ. Quan niệm sai lầm này khá phổ biến, cho đến giữa thế kỷ thứ XIX khi Holmes và Semmelweis đặt ra vấn để lây lan trong sốt hậu sản và để nghị biện pháp ngừa nhiễm khuẩn đầu tiên là rửa tay bằng nước có clor trước khi khám bệnh. Nhưng vì chưa chứng minh được nguồn gốc của nhiễm khuẩn (dù biện pháp của họ để xuất có hiệu quả thực tế), họ vẫn không thuyết phục được các đồng nghiệp bảo thủ của mình.
Sau đó Joseph Lister, một phẫu thuật viên người Anh, dựa vào sự khám phá về vi trùng của Pasteur vào năm 1867, đã chứng minh được vai trở của vi trùng trong nhiễm khuẩn. Ông cũng để xuất nhiều biện pháp tiệt khuẩn và vô khuẩn đầu tiên. Bài viết của ông "Về nguyên tắc tiệt khuẩn trong thực hành ngoại khoa” đăng năm 1867 là công trình khoa học đầu tiên đặt nền móng cho vấn để Vô khuẩn và Tiệt khuẩn trong ngoại khoa.

E.V. Bergmann giới thiệu về nguyên tắc tiệt khuẩn bằng hơi nước (năm 1886) và hoàn chỉnh cách thức vô khuẩn (năm 1891). Sự góp phần này của ông có liên hệ mật thiết đến việc làm của nhiều người khác chẳng hạn như Oliver Wendell Holmes, Semmelweis và Theodor Kocher. Có một sự kiện đáng nhớ là Kocher nhấn mạnh đến tẩm quan trọng của việc tiếp xúc với vật bẩn là nguồn gốc của nhiễm khuẩn. Từ sự kiện này đã giúp Halsted để xuất sử dụng găng tay cao su trong phẫu thuật ở Mỹ năm 1890.
Ngành vi trùng học đã góp phẩn tích cực điều trị nhiễm khuẩn trong phẫu thuật, dựa vào sự phát triển của hóa trị tân tiến bằng những thực nghiệm lâm sàng và sử dụng chất prontosil (Domagk1932) và penicillin (Fleming-1928 và Florey-1941). Với việc sử dụng kháng sinh điều trị, người ta hy vọng rằng tỷ lệ nhiễm khuẩn sau phẫu thuật sẽ được loại bỏ, nhưng bất hạnh thay điều này vẫn không xảy ra. Không những nhiễm khuẩn ở vết mổ và nhiễm khuẩn mắc phải ở bệnh viện vẫn còn tiếp tục. Việc điều trị bằng kháng sinh rộng rãi còn làm gia tăng thêm những khó khăn và phức tạp. Chính sự kiện này đã làm gia tăng số lượng nhiễm khuẩn mà hiện nay bệnh viện đang phải đương đầu. Điều đáng sợ nhất là thái độ thờ ở, sự thiếu hiểu biết của nhân viên ngành y tế đối với vấn để vô khuẩn.
Việc làm sạch, khử khuẩn và tiệt khuẩn đúng cách các dụng cụ/thiết bị rất quan trọng trong việc hạn chế lây truyễn vi sinh vật từ các dụng cụ dùng lại. Mức độ khử khuẩn tùy thuộc vào nguy cơ gây ra nhiễm trùng khi dụng cụ được dùng lại.
Bảng phân loại Spaulding thường được sử dụng để phân loại mức độ cần khử và tiệt khuẩn của các dụng cụ đã sử dụng cho bệnh nhân. Theo Spaulding, thiết bị y tế và dựng cụ phẫu thuật được phân loại theo mức độ tiếp xúc với mô cơ thể và nguy cơ gây nhiễm trùng khi sử dụng chúng, bao gồm không thiết yếu, bán thiết yếu và thiết yếu (bảng 1).
I. VÔ KHUẨN
Vô khuẩn (asepsis) hay còn gọi là vô trùng là tình trạng không có các loại vi trùng, vì nấm, virus hay các vi sinh vật khác có thể gây bệnh. Vô khuẩn là tình trạng lý tưởng để thực hiện các thao tác y tế nhất là các cuộc phẫu thuật. Để đạt được mục đích này đụng cụ phải được làm sạch, khử khuẩn và tiệt khuẩn. Vô khuẩn có vai trò kiểm soát rộng lớn trong thực hành. Nếu thực hiện một cách có ý thức nó sẽ làm giảm tỉ lệ nhiễmkhuẩn, chẳng hạn như sự tiệt khuẩn (sterilization) đo vật và tiếp liệu y tế; sự khứ khuẩn (disinfection) môi trường làm việc-phục vụ bệnh nhân; sự sát khuẩn (antisepsis) bàn tay và cẳng tay của ê-kíp phẫu thuật, sát khuẩn trên phần thân thể người bệnh
Tất cả các biện pháp này bắt nguồn từ hai ý niệm cơ bản:
1. Vi trùng hiện hữu ở khắp mọi nơi
Trong không khí, trong nước, trên vật dụng, trên người bệnh và trên người lành mạnh kể cả thẩy thuốc và nhân viên y tế.
2. Về phương diện tác hại
Vi trùng được phân thành hai loại: Vi trùng gây bệnh và vi trùng không gây bệnh. Sự phân chia này chỉ có giá trị tương đối. khi sức để kháng của cơ thể suy giảm hoặc khi vi trùng thay đổi nơi sinh sống, một vi trùng không gây bệnh sẽ trở thành vi trùng gây bệnh. Ví dụ: Các vi trùng hoại sinh ở da và ở các hốc tự nhiên (miệng, mũi, ống tiêu hóa, âm đạo) có thể gây bệnh trẩm trọng khi vào máu, vào xoang bụng.
Chỉ khi nào ý thức được như vậy, chúng ta mới thường xuyên áp dụng các biện pháp vô khuẩn một cách chặt chẽ trong mọi động tác khám bệnh, chăm sóc và điều trị nhất là trong ngoại khoa.
II. LÀM SẠCH, KHỬ KHUẨN VÀ TIỆT KHUẨN
1. Làm sạch
Làm sạch là giai đoạn đặc biệt quan trọng trong quá trình tái xử lý dụng cụ, và quyết định hiệu quả của việc khử khuẩn và tiệt khuẩn sau đó. Làm sạch là một hình thức khử bẩn nhằm loại bỏ các chất hữu cơ, muối và vết bẩn nhìn thấy được bằng nước, nhiệt, chất kháng khuẩn và bàn chải. Một số thiết bị (ví dụ: Cây treo dịch truyền, xe lãn...) đôi khi không cần khử khuẩn hay tiệt khuẩn thêm sau khi làm sạch.
Nếu dụng cụ không thể làm sạch ngay thì có thể dùng khử nhiễm bước đầu để làm giảm nguy cơ lây truyển tác nhân gây bệnh, ngâm dụng cụ vào dung dịch khử khuẩn mức độ thấp đến trung bình.
- Làm sạch có thể thực hiện bằng thuốc tẩy, chất làm sạch có enzym, hay nhiệt độ cao, hay sử dụng thiết bị cơ học như máyrửa bằng nước, máy làm sạch bằng sóng siêu âm. Dung dịch enzym giúp loại bỏ những vết bẩn bám chặt khi nước và thuốc tẩy không hiệu quả.
- Các ống, catheter và kim sử dụng lại phải được xịt nước vào lòng kỹ lưỡng.
- Dụng cụ sau khi làm sạch phải được tráng và làm khô đúng cách trước khi khử khuẩn hay tiệt khuẩn. Cẩn tráng để loại bỏ các chất bẩn và chất làm sạch trên dụng cụ để ngăn chất khử khuẩn bị trung hòa.
- Cẩn lau khô dụng cụ trước khi đưa đi khử khuẩn vì nước có thể làm giảm tác động của hóa chất khử khuẩn.
2. Khử khuẩn
Khử khuẩn là phương pháp dũng những quy trình hóa học đề loại bỏ hầu hết các vi sinh vật gây bệnh, các dạng vi khuẩn trên đồ vật, nhưng không loại bỏ hẳn tất cả (không diệt được bào tử vi khuẩn).
Có ba phương pháp khử khuẩn chính: Khử khuẩn bằng hóa chất, phương pháp Pasteur và tia cực tím.
Yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả của quá trình khử khuẩn:
- Sức để kháng của vi sỉnh vật
- Nổng độ của vi sinh vật
- Loại vật liệu (vô cơ hay hữu cơ)
- Cường độ và thời gian xử lý: Nỗng độ của chất khử khuẩn (sử dụng lần đầu và lần sau), nhiệt độ, thời gian tiếp xúc, pH dung dịch và cặn lắng còn bám lại sau làm sạch.
a. Khử khuẩn bằng hóa chất
Vi sinh vật có độ nhạy cảm khác nhau với chất khử khuẩn. Thực vật và virus có vỏ bọc thường nhạy cảm nhất; bào tử vi khuẩn và sinh vật đơn bào để kháng nhất.
- Khử khuẩn mức độ cao cần cho: Mycobacterium spp, virus không có vỏ bọc.
- Khử khuẩn mức độ trung bình cẩn cho: Nấm như Candida species, Cryptococcus species, Arpergillus species, Dermatophytes.
- Khử khuẩn mức độ thấp cẩn cho: Một số loại vi khuẩn gồm có Staphyloccus aureus, Salmonella typhi, Pseudomonas aeruginosa, Coliforms, virus có vỏ bọc.
Phải tuân theo khuyến cáo của nhà sản xuất về thời gian tiếp xúc, hòa loãng và trộn lẫn hóa chất. Nếu nổng độ của chất khử khuẩn quá thấp, hiệu quả sẽ giảm. Nếu nỗng độ quá cao sẽ tăng nguy cơ hư hại dụng cụ và gây độc cho người sử dụng. Phải rửa sạch dụng cụ một cách cẩn thận bằng nước đã tiệt khuẩn sau khi ngâm hóa chất.
b. Khử khuẩn theo phương pháp Pasteur
Những thuận lợi của phương pháp này là không độc, chu kỳ khử khuẩn nhanh, và chi phí máy móc và bảo dưỡng vừa phải. Những bất lợi chính của phương pháp này là (1) Không diệt được bào tử; (2) Có thể gây bỏng; (3) Thiếu sự tiêu chuẩn hóa về trang thiết bị; và (4) Khó đánh giá được hiệu quả của quy trình. Sau khi khử khuẩn theo phương pháp Pasteur, dụng cụ phải được làm khô và ngăn tái nhiễm khuẩn trong suốt quá trình lựu trữ và vận chuyển.
Khử khuẩn theo phương pháp Pasteur là quá trình khử khuẩn bằng nước nóng được thực hiện bằng việc sử dụng lò hấp Pasteur tự động hóa hay máy rửa khử khuẩn. Những dụng cụ bán thiết yếu thích hợp với phương pháp khứ khuẩn Pasteur, bao gồm dụng cụ hộ hấp và gây mê. Ngâm những dụng cụ này trong nước >75°C tróng 30 phút là biện pháp có thể được chọn thay cho hóa chất khử khuẩn. Những dụng cụ được khử trùng theo phương pháp Pasteur phải được làm sạch bằng chất tẩy và nước trước khi đem khử khuẩn. Dụng cụ phải được ngâm hoàn toàn trong nước trong suốt quá trình xử lý.
c. Ánh sáng cực tím
Vi sinh vật bị bất hoạt khi chiếu ánh sáng cực tím ở bước sóng từ 250-280nm. Khả năng diệt khuẩn phụ thuộc vào bước sóng, nhiệi độ, loại sinh vật và cường độ tia cực tím (bị ảnh hưởng bởi khoảng cách và ống dẫn).
Ánh sáng cực tím có thể gây bỏng da và mắt. Trên lý thuyết có thể gây đục thủy tinh thể và ung thư da.
Chiếu tia cực tím diệt khuẩn là phương pháp làm sạch không khí có thể dùng để hỗ trợ các biện pháp kiểm soát lao hay một số vi sinh vật gây bệnh khác, nhưng không dùng để ngăn ngừa nhiễm trùng trong phòng mổ.
Nếu không có máy đo bước sóng của đèn thì nên thay đèn mỗi 6 tháng cho dù đèn vẫn còn sáng.
3. Tiệt khuẩn
Tiệt khuẩn (antisepsis) là sự loại trừ vi trùng, vi nấm, virus và các vi sinh vật gây bệnh bằng các phương pháp vật lý hay hóa học. Các biện pháp này tiệt khuẩn bằng cách: Phá hủy trực tiếp cấu trúc của vi trùng hay cản trở hoạt động của vi trùng.
Tiệt khuẩn là một quy trình, và phải tuân theo các quy trình phù hợp để đạt được và duy trì độ tiệt khuẩn. Ngoài ra, có nhiều loại chất khử khuẩn hóa học được dùng như chất tiệt khuẩn khi ở nỗng độ cao hơn và thời gian tiếp xúc dài hơn tùy theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Những chất tiệt khuẩn này được sử dụng để tái xử lý các dụng cụ dùng lại không chịu nhiệt.
Tất cả dụng cụ thiết yếu tiếp xúc với mạch máu, niêm mạc không nguyên vẹn hay những nơi vô trùng trên cơ thể, phải được tiệt khuẩn.
Những phương pháp tiệt khuẩn bằng máy thường được sử dụng trong bệnh viện:
- Hơi nóng ẩm bằng autoclave.
- Tiệt khuẩn bằng khí (oxid ethylen hay formaldehyde).
- Tiệt khuẩn bằng Plasma.
- Hơi nóng khô.
Ưu điểm và nhược điểm của các phương pháp tiệt khuẩn khác nhau (bảng 2).

Phương pháp vật lý
a. Sức nóng
Tiệt khuẩn bằng sức nóng
Là phương cách đơn giản nhất, với điểu kiện là vật dụng không bị sức nóng làm hư.
Sức nóng có tác dụng tiệt khuẩn bằng cách làm đông đặc protein của vi trùng và phá hủy tất cả cấu trúc của vi trùng.
Sức nóng được sử dụng dưới hai dạng:
- Sức nóng ẩm: Có lợi điểm làm vi trùng mau chết và giúp nhiệt độ phân bố dễ dàng trên vật dụng cần tiệt khuẩn.
- Sức nóng khô: Ít hiệu quả hơn, cần nhiệt độ cao hơn và thời gian lâu hơn.
Tiệt khuẩn bằng hơi nước bão hòa dưới áp lực
Là phương tiện tiệt khuẩn tin cậy nhất vì nhờ có năng lực xuyên thấm, hiệu quả trên bề mặt vi khuẩn, dễ kiểm soắt và có tính kinh tế. Sử dụng hơi nước bão hòa dưới áp lực 15 psi (pounds per square inch = 453,60g/2,54cm²) trong 15-45 phút sẽ hủy diệt tất cả mọi dạng của sự sống. Cơ chế tiệt khuẩn của hởi nước bão hòa dưới áp lực chưa rõ lắm, có lẽ hơi nóng ẩm làm biến dạng vi khuẩn và làm đông đặc chất đạm trong tế bào của nó. Hơi nước tự do, giống như nước sôi, đạt 100°C nhưng hơi nước bão hòa dưới áp lực 15psi đạt 121°C. Hơi nước cho nhiệt thấm vào vật muốn tiêu diệt khuẩn, vì thế khi một gói đồ vải hoặc gạc được tiệt khuẩn, hơi nước sẽ tiếp xúc với lớp ngoài, ở đó một phần nó thấm vào làm ẩm và tăng nhiệt. Kế đến hơi nước xuyên thấm vào lớp thử hai cũng tạo ẩm và tăng nhiệt. Tiếp tục như thế, hơi nước đến trung tâm của gói, lớp này qua lớp khác cho đến khi toàn bộ gói đồ vải đều ẩm và tăng nhiệt bằng nhiệt của hơi nước xung quanh. Thời gian tiệt khuẩn tùy thuộc vào kích cỡ, và cách gói của đồ vẫi. Máy autoclave là một dạng máy tiệt khuẩn bằng hơi nước dưới áp lực được sử dụng trong hẩu hết các bệnh viện. Do đó, gói không đúng kỹ thuật, đặt không đúng vào vị trí trong lò hấp có thể làm tiệt khuẩn không hiệu quả mặc dù tất cả yếu tố vận hành máy đều tốt. Một phát minh mới là máy autoclave có áp lực hút-cao. Một bơm hút được lắp đặt vào hệ thống và một bộ phận hút được đưa vàc trong buồng máy vào lúc khởi động và cuối chu kỳ tiệt khuẩn. Loại máy tiệt khuẩn này được dùng để tiệt khuẩn nhanh các dụng cụ bị bỏ sót hay bị đánh rơi, có hiệu quả rút ngắn thời gian tiệt khuẩn đáng kể, chỉ cần khoảng 3 phút là đạt được yêu cầu thay vì 20 phút với hệ thống thông thường. Hơn nữa nó tỏ ra ít hư hại cho cao su, đồ vải và dụng cụ bén nhờ làm giảm thời gian tiếp xúc với hơi ẩm, giảm nguy hiểm do tụ túi khí, giúp hơi ẩm vào đến giữa gói đổ. Vật dụng khô nhanh, tăng sức chứa gói vật dụng trong buồng máy hấp.
Tiệt khuẩn bằng hơi nóng khô
Thường được dùng cho vật dụng bằng thủy tinh và vật dụng dễ hu hỏng nếu tiệt khuẩn bằng hơi nóng ẩm hoặc chống lại tính xuyên thấm của hơi ẩm như bột trơn, chất nhờn, mỡ, dầu nhờn... và cho các vật không thấm hơi ẩm nhưng có thể dẫn sức nóng một cách dễ dàng. Thời gian tiệt khuẩn ở nhiệt độ 121°C (250°F) là khoảng 6 giờ cho vật thủy tinh nhưng ở nhiệt độ 170C (340°F) thì thời gian rút xuống chỉ cần khoảng 1 giờ. Hơi nóng khô hủy diệt vi khuẩn bằng sự oxi-hóa nghĩa là ở nhiệt độ cao như vậy oxygen kếi hợp với vi khuẩn tạo nên sự cháy, tiêu hủy chúng.
Đặc điểm của các phương pháp thông dụng (bảng 3).
Để kiểm tra độ tiệt khuẩn người ta đặt các chất chỉ thị cùng với dụng cụ khi tiệt khuẩn. Các chất này đới màu hoặc chảy ra ở nhiệt độ nhất định.
b. Hơi oxid ethylene
Phương pháp này có nhiều loại khác nhau, dùng hơi ethylen oxide hỗn hợp và những chất hơi khác như là chất tiệt khuẩn. Nổng đệ oxid ethylen thay đổi theo dụng cụ nhưng tất cả các nhà chế tạc đều thành công trong việc biến một chất dễ cháy thành một chất an toàn và có hiệu quả. Người ta cho rằng chất hơi này diệt khuẩn bằng phản ứng hóa học trên chất đạm của vi khuẩn, làm cho những vi khuẩn này không thể hoàn thành những chức năng sinh học của nó. Được trang bị kiểm tra tự động, nhiều loại máy cần từ 48 phút - 4 giờ để hoàn thành một chu kỳ. Mặc dù dụng cụ này không có ý định thay thế cho sự tiệt khuẩn bằng hơi nóng bão hòa nhưng nó đặc biệt dùng để tiệt khuẩn do những vật dụng không chịu được nhiệt như dụng cụ bằng thép carbon có lỗ, một số vật bằng nhựa, dụng cụ có mang lăng kính, dây đốt và dao đốt điện, những phẩn bằng cao su của máy gây mê và găng cao su, chỉ phẫu thuật. Khi vật có tính hấp thụ như những vật dụng cao su được tiệt khuẩn bằng hơi, nó phải được thông khí sau khi được tiệt khuẩn bằng cách đặt những vật dụng này trên kệ trong 24 giờ, hơi bị hấp thụ sẽ thoát đi.

Các biện pháp tiệt khuẩn vật lý được dùng chủ yếu cho các vật dụng không bị tác nhân vật lý làm hư hại (như vật dùng bằng sành sứ, kim loại, đồ vải có thể tiệt khuẩn bằng sức nóng). Đối với những vật dụng khác như dụng cụ quang học, dụng cụ bằng chất dẻo... và đối với cơ thể thì chỉ có thể dùng biện pháp hóa học.

Biện pháp hóa học
a. Đại cương
Các hóa chất dùng để diệt khuẩn được gọi là chất sát khuẩn (antiseptic) nếu dùng được trên người, và gọi là chất tẩy uế (disinfectant) nếu chỉ dùng trên vật dụng, phòng ốc.
Các chất tiệt khuẩn diệt vi trùng bằng cách:
- Làm đông đặc protein của vi trùng.
- Làm vỡ màng hoặc vách của vi trùng.
- Làm mất hoạt tính của chất sulfhydryl (-SH) một số enzym chỉ hoạt động được nếu có nhóm SH tự do. Nhóm này bị các chất oxyt hóa và các kim loại làm mất tác dụng.
- Chất tiệt khuẩn chiếm chỗ tác dụng của một số chất quan trọng trong quá trình chuyển hóa làm quá trình này bị đình trệ.
b. Các thuốc sát khuẩn thông dụng
Các thuốc sát khuẩn có thể phân theo nhóm hóa học như sau:
- Alcool: Ethanol
- Aldehyd: Formol
- Acid: A. acetic, a. boric, a. lactic.
- Halogen: Iod, hợp chất Clor
- Oxyt hóa: Nước oxyt già, thuốc tím.
- Kim loại nặng: Thuốc đỏ (chứa thủy ngân) nitrat bạc, sulfat đồng, sulfat kēm.
- Phức hợp iodine (Betadine, polyvinyl pyrrolidone + iodine).
Các đặc tính của một số thuốc sát khuẩn thông dụng được tóm tắt trong bảng 4.
c. Lựa chọn thuốc sát khuẩn
Ở da không thể tiệt khuẩn được và nhiều hợp chất hóa học dùng để khử khuẩn đồ vật trong phẫu thuật thì lại độc hoặc có hại cho da vì thế hóa chất được dùng cho mục đích sát khuẩn phải được chọn lựa cẩn thận. Người ta lựa chọn các thuốc sát khuẩn dựa vào một số tiêu chuẩn sau:
- Thuốc có tác dụng diệt khuẩn tốt. Tác dụng này tùy thuộc vào:
- Nổng độ: Thường không tác dụng tỷ lệ thuận với nỗng độ, mỗi chất có một nỗng độ tối ưu. Ví dụ như Ethanol 70 diệt vì trùng tốt hơn Ethanol 90° vì nó làm đông protein từ từ, cho phép thuốc thấm vào hết tế bào, trong khi Ethanol 90° làm đông protein quá nhanh tạo ra vỏ bọc ngăn cản thuốc ngấm thêm.
- Thời gian cẩn để có tác dụng diệt khuẩn.
- Môi trường trong đó thuốc tác dụng (pH, nhiệt độ, các chất có thể kết hợp với thuốc làm mất hoặc giảm tác dụng như máu, mů...).
- Thuốc không gây hoặc ít gây hại tại chỗ (hư hoại mô lành, kích thích da) hay toàn thân (ngộ độc, dị ứng).
d. Thuốc kháng sinh
Khác với thuốc sát khuẩn chỉ được dùng tại chỗ ở ngoài da hay niêm mạc, thuốc kháng sinh thường được đưa vào cơ thể qua đường uống hay tiêm chích. Sự khám phá ra kháng sinh đã tăng khả năng chống nhiễm khuẩn. Tuy nhiên do sử dụng kháng sinh không đúng nên vi trùng kháng thuốc ngày càng nhiều.
III. KẾT LUẬN
Ba trở ngại chính cho sự tiến bộ của ngoại khoa là:
- Đau đớn
- Mất máu, rối loạn nước điện giải
- Nhiễm trùng
Đã lẫn lượt vượt qua nhờ các biện pháp: - Vô cảm - Hồi sức - Vô khuẩn và tiệt khuẩn
Tuy nhiên vấn để nhiễm trùng vẫn còn nhiều tổn tại do khả năng để kháng của vì trùng chống lại các biện pháp tiêu diệt chúng. Hướng giải quyết những tổn tại này ngoài việc tìm kiếm thêm nhiều loại kháng sinh mới mà là phòng ngừa nhiễm trùng, tốt nhất là bằng vô khuẩn thật hiệu quả, thật chặt chẽ trong từng động tác thăm khám, chăm sóc và điểu trị bệnh nhân.
TÀI LIỆU ĐỌC THÊM
- Nguyễn Hồng Rí, Bài giảng phẫu thuật thực hành “Nguyên tắc và Kỹ thuật vô khuẩn”, Trường Đại học Y Dược TР.НСМ, 2000: 21-38.
- Seymour I. Schwartz, M.D., Principles of Surgery "Infection", Mc Graw-Hill Book company, 9th Ed., 1999: 123-143.
- David C. Sabiston, Jr., M.D. Textbook of sugery "Principles of opreative Surgery". 14th Ed., W.B. Saunders company, 1991: 210-213.
